(LTS: Bài viết đang được chỉnh sửa bổ sung)
‘Hãy để vũ
trụ đại ngàn vận hành theo quy luật vốn có của nó’
Chiều nao em hứa ghé nhà!
Trút tình thơ thẩn vào ‘cha’ khù khờ
Dấu chân mềm mại như tơ
Dấu chân hờ hững hẹn bờ… ái ân
Anh nhìn ra cổng đăm đăm
Anh say anh đắm, anh nằm anh mơ
Mơ từ trưa đến tối mờ
Bóng em không thấy, chỉ ngơ ngác hồn
Chờ em cho đến mỏi mòn
Chờ em cho đến tình còn… hư vô
Trút tình thơ thẩn vào ‘cha’ khù khờ
Dấu chân mềm mại như tơ
Dấu chân hờ hững hẹn bờ… ái ân
Anh nhìn ra cổng đăm đăm
Anh say anh đắm, anh nằm anh mơ
Mơ từ trưa đến tối mờ
Bóng em không thấy, chỉ ngơ ngác hồn
Chờ em cho đến mỏi mòn
Chờ em cho đến tình còn… hư vô
1. Phần mở
đầu
Các bạn thân mến, bị mất ngủ, mình xin dành thời
giờ để trả lời các câu hỏi của các blogger về triết học/triết lý hoặc có liên
quan, chắc còn có nhiều blogger đã hỏi và sẽ hỏi. Chắc có bạn sẽ nói đọc đề tài
này ‘nhức đầu’ lắm, nhưng mình thiết nghĩ vấn đề là không thể để cho cuộc ‘mạn
đàm’ kéo dài như vậy, nếu các bạn chịu khó đọc một tí thì đọc triết lý chả
khác gì đọc thơ vậy! Bài viết này gồm có: Phần mở
đầu, Triết lý ‘lạc quan tếu’, Triết lý hư vô, Triết lý tôn giáo, Triết lý ‘cổ
điển’ và Phần kết luận.
Vì không phải là một ‘triết gia’ và vì tính tư
tưởng, người viết luôn giữ lập trường là: a. Không
luận bàn về vấn đề chính trị, không
luận bàn về Phật hay Chúa, nếu bài viết vô tình có dính díu đến tôn giáo (hay
chính trị) thì chả qua đó là những vấn đề thời sự mà không thể thiếu trong
các cuộc mạn đàm ở quán cà phê hay trong thế giới blog, b. Khi đề cập đến Khổng Tử, Trang Tử, Goethe, Heraclitus,
Pythagore, Newton/Einstein…, người viết không
sa vào chi tiết về mấy cái thuật ngữ, khoa học cơ bản, mấy cái
‘chút chút vụn vặt cãi nhau cả ngàn năm’, mấy cái ‘bàn một tí về ông này ông
nọ’… c. Là một blogger và trong phạm vi blog yahoo,
người viết chủ yếu ‘lấy ý kiến của các
blogger làm nguồn tư liệu’ (mà chưa thể tổng hợp hết), nicklog của các
blogger thiết nghĩ không cần phải
tiết lộ hoàn toàn, ví dụ ‘Th.Dn’ là chữ viết tắt của nicklog ‘Thanh - Đà Nẵng’,
vì sự tôn trọng ý kiến riêng tư của các blogger trong một ‘sân chơi’ bình đẳng
và không mang tính đề cao cá nhân hay chính trị, d. Chỉ tham khảo một số blogger có comment trong blog
này mà không có tham vọng tổng hợp
tất cả các blogger.
Hãy để vũ trụ đại ngàn vận hành theo quy luật vốn
có của nó, mình chỉ đứng nhìn thế giới dưới cặp mắt của ‘nhà gom lá bàng’, và chỉ quan tâm đến tính tư tưởng của các vấn
đề do các blogger đặt ra mà thôi. Do cách tiếp cận của mình, mình sẽ không
quan tâm đến triết học là gì, triết lý cụ thể hay ‘lý sự chổi cùn’, các vấn đề về
tư liệu..., việc này dành cho các vị được gọi là ‘triết gia’. Ngoài ra, mình không
thể đọc hết sách trên thế gian này được, nên mỗi ‘vấn đề’ có liên quan dưới đây
(ví dụ về Dale Carnegie, Trịnh Công Sơn…), mình chỉ nêu lên 2-3 ví dụ mà mình biết, các nghiên cứu
cụ thể cho mỗi vấn đề này dành cho các nhà ‘chuyên môn’.
Ngày nay, nhất là đối với thế hệ trẻ trên thế
giới, người ta không quá nặng về loại triết học gì, mà có xu hướng mạnh là tiến
tới một thứ triết học/triết lý ‘nhân bản’ chung cho cả nhân loại mà, thiết
nghĩ, không dành riêng cho một trường phái chính trị hay cho riêng cho một tôn
giáo nào. Triết học/triết lý ‘nhân bản’ vốn có từ ngàn xưa, đặc biệt là vào thời kỳ
Phục Hưng (thế kỷ 14-17) cho đến nay, gồm ít nhiều triết lý từ Balzac, Victor
Huygo, Krishnamurti, Hồ Thích, Các Mác/Ăng-ghen/Lê-nin, Hermann Hesse, Jack
London, Hemingway, Marquez, Dostoevsky, Lev Tolstoi, Sekhop, Solokhov, Aitmatov,
Kim Dung, Cổ Long, Lỗ Tấn, Trương Kiện Bằng, Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Thạch Lam, Nam Cao..., đó là những lời kêu
gọi hãy hiểu rõ về thân phận con người để nhân loại sẽ đưa ra cách hành xử đúng
đắn cho ‘sự tồn tại trong tình yêu’ của mình trong một thế giới đầy hỗn độn, đầy
tham vọng, đầy sắc máu và đang đứng bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt.
Thiển nghĩ rằng, nay đất nước ta đã được thống
nhất mấy mươi năm rồi, ‘nước VN là một, dân tộc VN là một’, việc dang tay đón nhận những đứa con
yêu nước nhập vào một mẹ tổ quốc ‘chung’ là một điều không thể chối cãi, lịch
sử là lịch sử, không nên quá chấp
nhất về quá khứ cũng như một số khuyết điểm không trọng yếu của mỗi con người, đặc biệt là đối với giới văn nghệ sĩ...
Người viết sẽ dùng từ triết lý hơn là triết học,
vì triết học thì phải có hệ thống, còn triết lý (có thể là một hay những tư
tưởng ‘vô địch’) nhưng dù sao nó chỉ có tính chất ngẫu hứng hay tản mạn. Các
bạn có thể dễ dàng tìm ra sự phân loại triết học trong các sách giáo khoa hay
trong Google…, người viết chỉ căn cứ vào ý kiến của các blogger mà phân loại,
và lưu ý rằng nhiều entry về sưu tầm, giới thiệu các phong cảnh đẹp, truyện sex/truyện người lớn, hay các entry
đả kích hay nói xấu cá nhân/chế độ… thì hầu
như không thể được gọi là triết lý.
Nếu
trên đời này không có… em
Bãi biển chiều nay khách vắng tênh
Mực tươi ngọt xớt ai thèm nhậu
Bia buồn mất nắp đứng chênh vênh
Bãi biển chiều nay khách vắng tênh
Mực tươi ngọt xớt ai thèm nhậu
Bia buồn mất nắp đứng chênh vênh
Nếu trên
đời này không có… em
Chiều rụng, thơ văn nhạt bên thềm
Hoa buồn không bay mùi trinh nữ
Lá sầu khép miệng giấu hương tiên
Chiều rụng, thơ văn nhạt bên thềm
Hoa buồn không bay mùi trinh nữ
Lá sầu khép miệng giấu hương tiên
Phần
2. Triết lý ‘lạc quan tếu’
Có
bạn hiểu nhầm 'lạc quan tếu' là mình tiếu lâm để sống cho lạc quan!
Thật ra ẩn nghĩa của nó khác xa. 'Lạc quan tếu’, nói nôm na, là
từ thường dùng để chỉ sự lạc quan không có cơ sở, là sự tự huyễn hoặc,
là cái mà ta tưởng bở nó sẽ là..., nhưng ở hiện thực hay khi sự việc xảy
ra thì nó lại là một trò ‘hề’, ví dụ dễ hiểu là một đội bóng
đá trước khi tham dự một cái giải nào đó đã vội huyên hoang tuyên bố là mình sẽ
vô địch rồi thất bại ngay từ... vòng loại!
"Hãy giẫm lên cái chết để được sống!"
Người ta thường nghĩ sống là
phải lạc quan, phải tranh đấu nơi ‘hội chợ phù hoa’, nơi chính trường/thương
trường/tình trường..., kể cả nơi thế giới ảo (blog), phải tin vào con người và
yêu thương con người, phải ‘tốt’ như thế này thế nọ... Phải thừa nhận là một trong số những triết lý này đã và
đang rất có lợi cho xã hội, đặc biệt đối với học sinh/sinh viên, thanh niên, cán bộ
hay các tín đồ… Ví dụ như ‘Đắc nhân
tâm’, ‘Quẳng gánh lo đi và vui sống’ của Dale Carnegie, ‘Cái dũng của thánh
nhân’ của Nguyễn Duy Cần, ‘Gương danh nhân’, ‘Gương nghị lực’ của Nguyễn Hiến
Lê, ‘Anbe Anhxtanh’ của Nguyễn Hoàng Phương, ‘Cuộc sống và sự nghiệp’ của Nhà
xuất bản Kim Đồng, ‘Sao khuê lấp lánh’ của Nguyễn Đức Hiển, ‘Tình yêu cuộc
sống’ của Jack London, ‘Chiếc lá cuối cùng’ của O. Henry, ‘Thép đã tôi thế đấy’
của Nicolai Ostrovski, ‘Những tâm hồn cao thượng’ của Hà Mai Anh (dịch)…, ngoài
ra, có nhiều triết lý lạc quan mà các bạn đọc có thể dễ dàng tìm thấy trong
văn, thơ, truyện, nhạc hay trong blog (như Tố Hữu, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang
Sáng, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Cường…).
Tuy nhiên, bất cứ một sự cường
điệu hóa của thứ triết lý ‘lạc quan’ hay nói một cách khác là ‘lạc quan tếu’
thì không sớm thì muộn cũng sẽ dẫn đến hậu quả từ tai hại đến vô cùng tai hại,
nói nôm na là nó nguy hiểm như một người tham gia giao thông mà chạy xe vượt
quá xa tốc độ tối đa cho phép vậy.
Liệu rằng một ít triết lý ẩn
hiện trong văn, thơ, nhạc của Shakespeare, Goethe, Dostoevsky, Lev Tolstoi,
Tagore, Osho, Kim Dung, Nam Cao, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hàn Mặc Tử, Johann
Strauss, Enrico Toselli, Chopin, Văn Cao, Đoàn Chuẩn - Từ Linh, Trịnh Công Sơn,
Thanh Tùng, Trương Quý Hải… phải đòi hỏi có tính tích cực/lạc quan, hay họ chỉ
nói lên cảm xúc và khát vọng của mình với tư cách là một trong vô số thân phận
con người!
Ông Nguyễn Du có câu nói nổi
tiếng là ‘nợ tình chưa trả cho ai, khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan’,
Hàn Mặc Tử với câu ‘trăng nằm sóng soải trên cành liễu, đợi gió xuân về để lã
lơi’, T.T.Kh. với câu ‘đưa người ta không đưa qua sông, sao có tiếng sóng ở
trong lòng’, Tagore với câu ‘nếu đời anh là hạt ngọc, anh sẽ đập tan ra hàng
trăm mảnh để xâu thành một chuỗi hạt và quàng vào cổ em’, Đoàn Chuẩn - Từ Linh
với câu ‘gửi gió cho mây ngàn bay, gửi tiếng tơ đồng tìm duyên, gửi em là thư
màu xanh ái ân, về đôi mắt như hồ thu’, Trịnh Công Sơn với câu ‘người đã đến và
người sẽ về bên kia núi, từng lời nói là từng cánh buồm giong cuối trời, còn
lại tiếng cười khóc giữa đời’, Phạm Duy với câu ‘sống trong lòng người đẹp Tô Châu,
hay là chết bên dòng sông Đa-nuýp’, hay Ngô Thụy Miên với câu 'Dù cho mưa tôi xin đưa em đến
cuối cuộc đời. Dù cho mây hay cho bão tố có kéo qua đây. Dù có gió, có gió lạnh đầy, có tuyết bùn lầy. Có
lá buồn gầy, dù sao, dù sao đi nữa tôi vẫn yêu em'....
Chắc ta cũng biết rằng, mặc dù
là các ‘thiên tài!’, triết gia vĩ đại Socrate lại bị vợ xem thường, Nguyễn Du cũng
có lúc đi ăn xin!, Nguyễn Trãi cũng bị tru di tam tộc, Mozart, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Nhược Pháp bị chết sớm, Hàn Mặc Tử bị cùi, Mayakovsky, Hemingway, Khuất Nguyên
thì tự tử, Einstein đã 2 lần thi rớt đại học và khi ra đời ‘thuyết tương đối’
thì hầu như.. chả ai tin, Putin lúc xuất thân phải làm nghề ‘nhôm nhựa’, Steve
Jobs cũng có 2 lần bị đuổi việc thê thảm và bị bệnh nhiều lần ‘chết đi sống
lại’, Pasteur bị liệt một bán cầu đại não, Pierre Curie (chồng bà Marie Curie)
bị xe ngựa cán chết, Kenedy, Lincon bị ám sát, Van Gogh, Bùi Giáng bị gọi là
‘điên’, vua Trần Nhân Tông, Kim Dung thì đi tu, Nguyễn Công Trứ (73 tuổi) lấy vợ
18 tuổi…
Vì sao, vì cuộc sống là biến
đổi khôn lường, muôn hình muôn vẻ, vô cùng, vô tận và vô thường, đã là con
người thì mấy ai thoát khỏi ‘lưới tình’ và mấy ai vượt qua được ‘số
phận’!
Ngoài ra, cái được gọi là ‘lạc
quan nghiêm cách’ hay ‘lạc quan đơn điệu’ đó chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong số
các blogger, điều đó rất dễ kiểm nghiệm, các bạn thử đọc 100 blog thì sẽ thấy ít
người nói phải lạc quan thế này thế nọ, sống là phải chiến đấu như thế này thế
nọ, yêu đời hay yêu người như thế này thế nọ, thiên đàng/niết bàn như thế này
thế nọ..., mà đại đa số blogger là nói về buồn nhiều hơn là vui như: vị đắng
của tình yêu, đau khổ/thất tình, hay những tâm sự về sự thất bại, khó khăn, bất mãn, uẩn khúc hay
bị giày vò trong cuộc sống, nhất là sự cô đơn…
Hàng ngày mình đọc khoảng 10 entry, mình nhận thấy
không ít blogger muốn nhìn xa trông rộng và khá… thận trọng, họ không tô ‘hồng’
thế giới như ta vẫn thường tưởng, sau đây là vài ví dụ:
- Ý kiến của bạn Dkt, comt
trong entry ‘Chân lý của loài người’
‘Tất cả chúng ta được hình
thành từ những chất liệu vô hình để có cái gọi là hữu hình, không có một cá thể
nào độc lập để tồn tại. Con người, cỏ cây, đất đá, muông thú... chỉ là tập hợp
của rất nhiều điều kiện, cho nên đừng nên chia chẻ, phân tích một vấn đề nào
một cách chủ quan anh nhỉ? Vậy thì, anh hãy vui vẻ, bình an, vì như thế những
người thân bên anh sẽ được hưởng lây những phúc lạc của anh lan tỏa, trong đó
có em nữa, vì những yếu tố đó liên kết nhau như một mắc xích vòng tròn, không
có chỗ bắt đầu và không có kết thúc…’
- Ý kiến của bạn Rp, comt trong
entry ‘Triết học là gì?’
Theo RP, triết tự thân nó là
đúc kết của những trải nghiệm về quy luật của vũ trụ, trong đó có con người, kể
cả phần thân xác lẫn tâm linh. RP không được học về triết (ngọai trừ một thứ
triết mà đến bây giờ mình thấy nó là… hoang tưởng!), RP chỉ "cảm nhận"
triết từ cuộc sống đời thường. Với RP, triết không có gì cao siêu hay trừu
tượng, tất cả là đời sống thôi. Chỉ khác một điều, triết nhìn vào cuộc sống
không phải ở bề mặt mà là bề sâu, nhìn vào những lớp bên dưới. Và với RP, triết
không mang bản chất chính trị (!). Vì triết là một vấn đề tư tưởng nên dễ bị
nhập nhằng và trộn lẫn với chính trị mà thôi...’
- Ý kiến của bạn HN, comt
trong entry ‘Hạnh phúc’
‘Thật bất ngờ khi đọc bài
"hạnh phúc" của anh với những trích dẫn phong phú về khái niệm này. Có
lẽ đây là chủ đề khá rộng và là vấn đề mà những ai muốn cân bằng đời sống vật
chất với đời sống tinh thần vẫn hoài trăn trở. Lúc còn Yahoo 360 mình cũng có
đề cập vấn đề này trong phạm vi hẹp. HN rất đồng ý với cách đặt vấn đề mở đầu
của bạn. Với mình thì happy và unhappy là một ("Âm trung hữu dương căn,
dương trung hữu âm căn"), xin trích dẫn lại đây vài ý tưởng mình thú vị
anh tham khảo cho vui: Alexandre Dumas: "Đồi Calvaire ở đầu đường mà hào
quang cũng ở đó!". Raxun Gamzatop, tác giả "Daghextan của tôi",
trích dẫn lời Abutalip: "Chuông báo trước niềm vui khi hội hè nhưng cũng
gióng lên từng hồi báo động". Nhà văn nữ Túy Hồng trong "Tôi nhìn tôi
trên vách" thì bảo "Trong nghiệp chướng oan khiên vẫn nẩy mầm bông
hạnh phúc và trong vòm trời hạnh phúc vẫn có mầm mống thiên tai", và Vũ
Thành An trong "Bài không tên số 1" (?) phổ thơ Nguyễn Đình Toàn (?)
viết rằng: "Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai!". Mình nghĩ
hạnh phúc hay khổ đau chỉ là do cách nhìn nhận khi ta đang trong tâm thế lạc
quan hay bi quan mà thôi (tại tâm) vì với 1/2 chai rượu/nước trước mặt sẽ có
người bảo: "Trời ơi, chỉ còn có nửa chai" trong khi người khác lại
nói: "May quá, còn được nửa chai". Vụ này chắc phải nói theo cách
xưa: "Xấu đẹp tùy người đối diện!" và cách fast food bây giờ:
"hên xui".
- Ý kiến của bạn Th.Dn, comt trong entry 'Tình yêu và Kim Dung'
‘Tiêu Phong ơi! Có phải tiếng thét
thống thiết của chàng giữa quần hùng Trung nguyên và muôn vạn quân binh Liêu -
Tống là tiếng kêu vang vọng từ ngàn năm của số phận con người tìm về hạnh
phúc?, và như là câu trả lời cho giới hạn nhất định rằng chẳng thể có hạnh phúc
nào viên mãn trên chốn trần gian?'
...Và cuối cùng, dường như thế giới blog không liên quan nhiều đến triết lý ‘lạc
quan tếu’. Phải chăng nhờ cái chết mà ta
mới biết giá trị của cuộc sống, phải chăng ta nhận chân được hạnh phúc khi đã từng trải mùi vị của đau khổ, phải chăng cái lạc quan có được từ việc biết nỗ lực vượt qua cái bi quan, và phải chăng tình yêu được nuôi dưỡng từ những 'vị đắng' tuyệt vời...
Cô đơn nào giữa cuộc đời
Cô đơn lòng thấy chơi vơi đêm về
Cô đơn chìm giữa cơn mê
Cô đơn than khóc cũng về hư không
Cô đơn lòng thấy chơi vơi đêm về
Cô đơn chìm giữa cơn mê
Cô đơn than khóc cũng về hư không
Cô đơn nơi chốn biệt
phòng
Cô đơn tin nhắn nào mong đến mình
Cô đơn dòng chữ vô tình
Cô đơn thượng đế lặng thinh chẳng nhìn
Cô đơn tin nhắn nào mong đến mình
Cô đơn dòng chữ vô tình
Cô đơn thượng đế lặng thinh chẳng nhìn
Phần 3 - Triết lý hư vô
"tình yêu là liều thuốc thần diệu giúp con
người vượt qua nỗi ám ảnh về hai chữ hư vô”
Chúng
ta hẳn đã từng xem phim ‘Bến Thượng Hải’, ‘Thần điêu đại hiệp’, ‘Thiên long bát
bộ’, ‘Người cá’, ‘Romeo và Juliet’… và khó mà tránh được những dòng nước mắt
hay nhiều lần trái tim phải thổn thức vì cảm thấy ‘tội nghiệp’ cho cái tình yêu
hay thân phận con người đầy khổ đau. Có thể gọi những triết lý rãi rác trong
các loại phim truyện trên là triết lý ‘ngẫu hứng’ - đó là những khúc
mía mà không làm mên một cây mía hoàn chỉnh (= triết học hay ‘hệ thống ý
niệm’).
Nói
chung, mình không có tham vọng phân biệt các thứ triết lý hư vô hay vô thường/vô
vi, thiền…, đơn giản là mình thấy cái gì có chữ ‘không’ thì nhập
vào cũng một entry mà thôi, dưới đây người viết chỉ có vài dòng cảm nhận ngắn thôi, các
bạn có thể dễ dàng tham khảo chi tiết trong Google.
Triết
lý
hư vô (cùng 'sánh bước' với vô vi hay vô thường, đều là 'vô' cả, nhưng
quan điểm không hoàn toàn giống nhau) là
phổ biến và ẩn tàng trong rất nhiều tác phẩm hay các triết lý khác trong
mấy
ngàn năm nay. Về triết lý vô vi, đại biểu xuất sắc của nó là Trang Tử
(hay Lão
Tử (thuận theo tự nhiên mà sống)) - nói chung
cuối cùng cũng xem ‘đời là giấc mộng’ hay ‘đời là vô thường’- đã biến
thành
‘đạo giáo’, đã là một bộ phận trong ‘võ đạo’ của phái Toàn Chân, Võ
Đang, đã thâm nhập vào tiềm thức người Tàu và nhiều nơi trên thế
giới, thậm chí trong Phật và thiền, đặc biệt là vào rất nhiều trí thức/văn nghệ sĩ TQ và VN sau này. Người
đọc có thể khai thác nó trong ‘Đạo đức kinh’ của Lão Tử, ‘Nam hoa kinh’ của
Trang Tử, trong thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Apollinaire, Bùi Giáng, trong
‘Góp nhặt cát đá’ của thiền sư Muju, trong ‘Tự do đầu tiên và cuối cùng’ của
Krisnamurti, trong ‘Vô Kỵ giữa đời tôi’ của Đỗ Long Vân, trong 'Vật lý tiến hóa luận ' của Einstein, trong nhạc Trịnh Công
Sơn, Vũ Thành An, trong truyện của Hemingway, Marquez, Aimatov và trong rất
nhiều truyện kiếm hiệp của Kim Dung hay Cổ Long…
‘Trăm năm trước thì ta chưa
có
Trăm năm sau ta có cũng như không'
Trăm năm sau ta có cũng như không'
Có
thể dẫn ra đây một vài câu trứ danh:
- ‘Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh’ (‘Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là đạo. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là danh', trong ‘Tri bắc du’ - Trang Tử),
- ‘Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống chăng?' (trong ‘Thiên hạ’ - Trang Tử),
- 'Dư dục vô ngôn, tứ thời hành yên, vạn vật dục yên, thiên hà ngôn tai' (ta không muốn nói nữa, bốn mùa êm trôi, vạn vật đua nở, kìa như trời đất có nói gì đâu' - Khổng Tử),
- ‘Đốt tàn xác của ta, ngọn lửa thành bốc cháy hồng hồng. Sống đã chi làm sướng, chết không lấy chi làm khổ.. Hí, lạc, bỉ, sầu đều trở về cát bụi. Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn quá nhiều’ (trong 'Ỷ thiên đồ long ký' - Kim Dung),
- ‘Lai như lưu thủy hề, thệ như phong. Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung!’ (Đến như nước chảy, đi như gió. không biết đến từ đâu, không biết cuối cùng đi về đâu!', trong 'Ỷ thiên đồ long ký' - Kim Dung),
- ‘Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cùng không’ (Từ Đạo Hạnh)
- ‘Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh’ (‘Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là đạo. Danh mà ta có thể gọi được, không phải là danh', trong ‘Tri bắc du’ - Trang Tử),
- ‘Thoắt lặng không hình, biến hóa không thường, chết chăng, sống chăng?' (trong ‘Thiên hạ’ - Trang Tử),
- 'Dư dục vô ngôn, tứ thời hành yên, vạn vật dục yên, thiên hà ngôn tai' (ta không muốn nói nữa, bốn mùa êm trôi, vạn vật đua nở, kìa như trời đất có nói gì đâu' - Khổng Tử),
- ‘Đốt tàn xác của ta, ngọn lửa thành bốc cháy hồng hồng. Sống đã chi làm sướng, chết không lấy chi làm khổ.. Hí, lạc, bỉ, sầu đều trở về cát bụi. Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn quá nhiều’ (trong 'Ỷ thiên đồ long ký' - Kim Dung),
- ‘Lai như lưu thủy hề, thệ như phong. Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung!’ (Đến như nước chảy, đi như gió. không biết đến từ đâu, không biết cuối cùng đi về đâu!', trong 'Ỷ thiên đồ long ký' - Kim Dung),
- ‘Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cùng không’ (Từ Đạo Hạnh)
- ‘Bồ đề vốn không phải là cây, gương sáng cũng không phải là đài, người
chẳng soi ở nước chảy, mà soi ở nước dừng (Huệ Năng)...
Nói
thêm, khác với ý niệm 'hư vô' của Đông phương, triết lý hiện sinh từ Nietzsche, Jean Paul Sartre, Heidegger, Kafka,
Dostoevsky …, nói nôm na, là một thứ triết lý về ‘thân phận con người’ (nó có
liên quan đến ‘thái độ hiện sinh (the
existential attitude), hay một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng
trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý (nguồn:
Wikipedia)’. Nói chung, mình không thích lắm 'cái tôi quá hư vô' bằng
cách nhìn thấy giới với thái độ quá
mất lòng tin, bi quan hay hằn học như vậy, ví dụ, ‘Thượng đế đã chết’
(Nietzsche) hay ‘Lão tặc thiên’ - Tạ Tốn (trong Kim Dung).
Ngoài
ra, con người cần phải được sống trong một thế giới ‘thiền’, cần
phải có một tâm hồn ‘trong sạch/không tạp niệm’, cần phải ‘thăng hoa’, cần phải
‘thực tại hóa’…, trong đó con người có khả năng tiến đến miền thâm viễn nhất
của trí tuệ, tiếp cận tốt nhất về bản chất của thế giới, con người và chính
mình.
Có
nhiều lần, khoảng 1975-1990, mình nghe nói ‘ý niệm’, nếu có, của Trịnh Công Sơn
thuộc trường phái ‘triết học hiện sinh’ (!) mà được miêu tả như là một thứ
triết lý hư vô hay triết lý bi quan ru ngủ con người, và do đó xếp nhạc của ông
ta thuộc loại ‘nhạc vàng’ (!).
Thực
ra, hầu hết các bài hát của Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Phạm
Duy, Văn Cao, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Lam Phương, Trần Trịnh, Thanh Tùng, Trương
Qúy Hải, Đỗ Bảo, Bảo Chấn... … đều nói lên cảm xúc rất rõ nét về thân phận con
người, nói một cách khác, nó đầy tình nhân bản, tự thân nó đã là một lời kêu
gọi chiến đấu cho sự cảm thông với ‘kiếp người’ vốn tồn tại trong một thế giới đầy hỗn độn, đầy khổ đau và vô
thường này.
Những
lời bài hát đầy tính siêu thực và nóng bỏng về tình yêu của họ vốn không hàm
chứa tính tiêu cực, chẳng hạn như ‘sống trong lòng người đẹp Tô Châu, hay là chết bên dòng
sông Đa-nuýp (Phạm Duy)’, hay ‘hờ hững cõi thiên đàng, thuyền trôi bến sông xa
đừng chờ, xin hãy lắng nghe bao lời thơ chiều tà, nhạc chiều của chúng ta, là câu ân ái muôn đời, bóng đã xế rồi, xin
nép trong lòng cõi đời (Phạm Duy)’, hay ‘một sớm mai kia, chợt thấy hư vô
trong đời, người vẫn đâu đây, người cũng đã như xa rồi, chỉ là ... thế thôi
(Thanh Tùng)’, hay ‘Sỏi đá rêu phong, sỏi đá chưa quên chân người. Bài hát rêu
phong, bài hát viết không nên lời, đã vội ... lãng quên (Thanh Tùng)’, hay ‘Hỏi
đá xanh rêu bao nhiêu tuổi đời. Hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời. Hỏi những
đêm sâu đèn vàng héo hắt. Ái ân bây giờ là nước mắt. Cuối hồn một thoáng nhớ
mong manh (Trần Trịnh)’, hay ‘Chỉ còn một chiếc lá cuối thu mỏng manh. Chỉ còn
một mình anh ... xót xa chờ em (Trương Quý Hải)’, hay ‘Không gian im nghe nhịp đôi tim hẹn ước. Mong sao tương lai đường
trăng ta cùng bước. Xiết tay dắt nhau mình lánh xa
thế nhân.
Lánh xa ưu phiền đắng cay trần gian (Lam Phương)’,
hay 'Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo. Em nhớ cho mùa thu đã chết
rồi. Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa. Mộng trùng lai không có ở
trên đời. Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi. Và nhớ nhé ta đợi chờ
em đó (Thơ Appollinaire - Bùi Giáng dịch)'...
Những lời thơ/văn/nhạc nói trên chỉ nêu lên một khát
vọng sống hết mình cho tình yêu, cho ‘những giây phút bất tử của tình yêu’ mà
các thi/nhạc sĩ khác như Johann Strauss, Enrico Toselli, Chopin, Tagore, Goethe...
đã từng làm như vậy.
Như đã nói ở phần 1, mình sẽ không sa vào chi tiết, để thư giãn, các bạn
hãy tham khảo sau đây ý kiến của vài blogger:
- Ý kiến của bạn HN, comt trong entry ‘Cái chết’
‘Mình cứ nghĩ đơn giản cho khỏe: chết là hết, "cọp chết để da,
người ta chết để tiếng". Do vậy, trong hành trình làm người, mình vẫn đeo
đuổi thực hiện theo một ngạn ngữ (hình như của một người Pháp): "Hãy học
hỏi như sống được đời đời và hãy sống như phải chết trong nay mai" (chỉ
nhớ vế sau câu tiếng Pháp: "Vivez comme si vous devez mourrir
demain")...’
- Ý kiến của bạn Hnl (email)
‘Em… không muốn nói năng gì trên giang hồ nữa: "dư dục vô ngôn, tứ
thời hành yên, vạn vật dục yên, thiên hà ngôn tai" (ta không
muốn nói nữa, bốn mùa êm trôi, vạn vật đua nở, kìa như trời đất có nói gì đâu).
Từ nay có nói năng gì cũng chỉ mong thủ thỉ cùng các mỹ nhân thôi, hì…Thực sự
là chỉ vì em thấy mỏi mệt sau bao năm đua chen bôn tẩu giang hồ, bây giờ sinh
ra lười biếng, chỉ muốn nằm im nghe cuộc đời trôi qua mà thôi… Cho nên
rất thích câu hát của Trịnh: “Nhiều khi muốn quay về, nằm im dưới mái
nhà…”
- Ý kiến của bạn TSKL, trong bài ‘ông Tiến sĩ kỳ lạ’
‘Em
hiểu, nhưng em hiếm khi có cảm hứng (với đàn bà) lắm, em chỉ nghiên cứu suốt
ngày thôi, chắc là em đã lầm, cuối cùng ta cũng sẽ tiến về con số không thôi,
em sẽ nghĩ lại’
- Ý kiến của bạn Sun, trong
entry ‘Phi ngạo và phi triết’
‘Trăm năm trước thì ta chưa
có
Trăm năm sau ta có cũng như không
Cuộc đời có có không không
Trăm năm còn lại tấm lòng mà thôi’
Trăm năm sau ta có cũng như không
Cuộc đời có có không không
Trăm năm còn lại tấm lòng mà thôi’
-
Ý kiến của bạn HN, trong entry ‘Chân lý của loài người’
‘HN
nhớ một thiền giả nào đó khi trả lời câu hỏi của một thiền sinh: "Thiền là
gì?" rẳng: "Thiền là đói ăn, khát uống, buồn ngủ đi ngủ, mắc đái đi
tiểu, mắc ị đi cầu..." (Xin lỗi đã trích dẫn ý này) và xin đưa thêm một
câu của Deepak Chopra trích dẫn bởi Jack Canfield rằng: "Trong vũ trụ này
không có gì là thừa cả. Mỗi người có mặt trên cõi đời này vì họ cần lấp đầy một
khoảng trống nào đó, và tất cả những mảnh nhỏ đều phải vừa khít với chỗ của nó
trong tấm xếp hình khổng lồ của vũ trụ".
Để
kết luận cho nhẹ nhàng, trong bài ‘Phi Kim - Dung và tình yêu’, mình có viết:
‘Phải chăng số phận của con người đến từ sự ngẫu nhiên, con người được
sinh ra và phát triển trong một thế giới xa lạ mà không phải do mình tự chọn,
và do đó bản chất con người cũng là cô đơn’, và ‘Con người chứ không ai khác đã
tự sản sinh ra tình yêu sau khi ăn trái cấm, mà thượng đế chỉ ban tặng cho họ
không khác gì là hai xác thịt chứa đầy rẫy những tình dục, cô đơn và đau khổ.
Chính tình yêu làm cho con người vượt qua giới hạn của chính - tà, vượt qua nỗi
cô đơn, nhẹ đi đau khổ và đặc biệt tình yêu là liều thuốc thần diệu giúp con
người vượt qua nỗi ám ảnh về hai chữ hư vô”.
Hoàng
hôn không bao giờ dừng lại
Bóng đêm tồn tại chốn trần ai
Mặc bao đau khổ và u tối
Vẫn vô tình cho đến ban mai
Bóng đêm tồn tại chốn trần ai
Mặc bao đau khổ và u tối
Vẫn vô tình cho đến ban mai
Cuối cùng ta cũng phải ra đi
Tất cả rồi sẽ không có gì
May ra chút tình yêu để lại
Khắc khoải trần gian chẳng mấy khi
Tất cả rồi sẽ không có gì
May ra chút tình yêu để lại
Khắc khoải trần gian chẳng mấy khi
Phần 4 -
Triết lý tôn giáo
"Ta là ai? Ta sinh ra để làm gì? Ta sẽ đi về đâu?"
Trong Phần mở đầu, người viết
có nói là ‘sẽ không luận bàn về tôn giáo’. Không có tham vọng tổng hợp tư tưởng
của các tôn giáo, trong phạm vi hẹp của blog này, người viết chỉ ghi lại một số
‘cảm nhận’ của mình và của một số blogger mà thôi.
Đây là một số đoạn trích trong
entry ‘Hắn gặp đức Phật Thích Ca Nâu Ni’:
‘Trong dẫn giải của anh ấy,
không có cái gì là lòng thù hận hay chấp nhất. Y đã chỉ ra sự không phân biệt
chúng sinh, muôn loài đều là một, thiện cũng là tự nhiên và ác cũng là tự
nhiên, thiện ác vốn là tự nhiên và hòa quyện thành một thể mà không có ranh
giới rõ ràng và không thể phân chia…
Ta đang đứng đây, xuất hiện
trong vòng sinh tử, ta cứ cho là do cha mẹ sinh ra, cứ quán tính cho rằng ta
sinh ra ở đây, ta là người thế này thế nọ, thử hỏi nếu không có không khí hay
ánh mặt trời, thì làm sao mà có cha mẹ ta mà có ta, vậy thì ta sinh ra từ đâu!
…Hắn nhớ lại Không Kiến thần
tăng, người đã đưa thân mình ra chịu đủ 13 quyền (Thất thương quyền) của Tạ Tốn
rồi chết, cái chết của ông ta làm Tạ Tốn ân hận khôn nguôi và cuối cùng y đã
thành phật với câu nói có thể là bất hủ, đó là ‘Tạ Tốn cũng là cục phân và cục
phân cũng là Tạ Tốn’.
Cuộc nói chuyện của anh ấy, có
lúc làm hắn liên tưởng đến anh chàng Jean Valjean và giám mục Myriel đầy
lòng 'từ bi' - người đã bảo vệ Jean bằng cách nói với cảnh sát rằng những đồ
vật quý giá mà anh ấy ăn cắp từ ông ta là do ông ta tặng. Dĩ nhiên, vị giám mục
nọ làm nghề cứu rỗi linh hồn, hẳn khác với anh cảnh sát là người thực thi pháp
luật. Và chính bởi vì tấm lòng cao cả trên mà làm Jean đã vượt qua bao
gian khổ và có ý thức của một con người đầy nhân bản.
Hắn nhớ lại truyện ‘Câu chuyện
dòng sông’ của một nhà văn đoạt giải Nobel là Hermann Hesse,
trong đó có anh chàng ‘Tất Đạt’ có gặp đức Phật trong một thời gian ngắn, với
lời khuyên hãy đừng đi theo con đường của Ngài, anh ta đã quay về quê và
gặp được người lái đò trầm lặng mà hàng ngày vẫn đưa đón anh ta qua sông, tại
đấy anh ta đã giác ngộ thành phật.
…Câu chuyện lại dẫn đến chuyện
có một người ném một hòn đá xuống nước, nước chạm mặt hồ tạo những vòng tròn
lan truyền và lan truyền dần tác động đến các vật khác. Cái mà ta làm hôm nay,
có thể tác động một phần nhỏ đến thế giới mai sau, có người định nghĩa đó là sự
bất tử đó, chúng ta bất tử trong người khác!
…Người đàn ông này nói chuyện
cả ngày mà hắn dường như không thấy cái ‘tôi’ của anh ấy ở đâu, anh ta là gì, y có lòng
tham không, y muốn gì, y có đi làm kiếm tiền không, y có phải là người không,
…, thực sự hắn không biết, tất cả các câu hỏi đó đã có ánh mặt trời trả lời.
…Và nhờ anh ấy mà hắn đã thốt
ra:
Dục vọng là tự nhiên nhiên nhiên, sao ta phải dằn vặt?
Hạnh phúc là tự nhiên nhiên nhiên, há sao ta phải tìm?
Đau khổ là tự nhiên nhiên nhiên, há sao ta phải tránh?
Dục vọng là tự nhiên nhiên nhiên, sao ta phải dằn vặt?
Hạnh phúc là tự nhiên nhiên nhiên, há sao ta phải tìm?
Đau khổ là tự nhiên nhiên nhiên, há sao ta phải tránh?
Hắn chỉ gặp anh ấy có một
ngày, một ngày là đủ rồi, phật là phật, phật tại tâm, chứ không phải tại hắn gặp
anh ấy ngày hôm đó hay ngày hôm nay’.
Và tiếp theo là một số đoạn ‘cảm
nhận’ trong entry ‘Đêm Noel không thể nào quên’:
‘Ông ấy nói nói tâm hồn của
con người như một cái bình chứa đầy những tạp niệm. Chúa sẵn sàng đến với con
người, nhưng Ngài đến bằng cách nào trong khi con người không cho Ngài đến. Các
người hãy đổ những tạp niệm ra, càng nhiều chỗ trống thì Ngài càng đến, cho tới
khi cái bình rỗng không thì Ngài ngự hoàn toàn trong trái tim bạn'.
…Nhưng lời nói đó, cứ lẩn quẩn
trong đầu óc hắn và thỉnh thoảng nó lại xuất hiện.
Khi ngồi bên cái máy laptop để
viết entry, hắn hiểu rất rõ ràng là tại sao người ta nói thượng đế luôn hiển
hiện chung quanh ta, trong cái không gian ta đang ở, mà chính hắn cũng cảm nhận
một cách rõ ràng như vậy.
Hắn cũng cảm nhận được rằng
Chúa sẵn sàng đứng bên cạnh hắn và đưa tay bảo vệ hắn suốt đời mà không phụ
thuộc vào số lần mà ai đó đi nhà thờ hay niệm ‘a men’.
Vì sự ảnh hưởng của lời giảng
đó, khi hắn ra quán cà phê, để góp ý cho một người biết chỗ đúng sai của mình
và để người đó tiếp thu cái đúng, hắn thường lấy ra một ly nước trà đầy và nói:
- ‘Đây là một ly nước trà đầy,
ta đỗ ra một ít nước thì trong ly trà lại xuất hiện một khoảng không, ta đỗ ra
càng nhiều nước thì khoảng không càng lớn, ta đỗ hết nước trà ra thì ta có một
cái ly trà hoàn toàn trống rỗng. Tư tưởng cũng vậy, nếu bỏ bớt tạp niệm hay cái
tôi càng nhiều, thì sẽ tiếp nhận càng nhiều chân lý của cuộc sống, lúc đó có
thể nói là ta đã trở thành bậc thông thái, nếu ta bỏ cái tôi hay tạp niệm hoàn
toàn, khi đó cái tôi hòa nhập với vũ trụ làm một, hay nói cách khác là ta đã
trở thành đấng ‘giác ngộ’.
Sau đây là ý kiến của một số
blogger:
- Ý kiến của bạn RP, trong
entry ‘Hắn gặp đức Phật Thích Ca Mâu Ni’ và ‘Chân lý của loài người’
‘…Nếu chiêm nghiệm được rằng, cuộc sống này là 'nhân duyên', là 'sự kết nối của những dấu chấm' (Steve Jobs), thì con người sẽ sống một cách an nhiên hơn. Những đau khổ hay ham muốn... đều được chế ngự và sẽ không còn khiến con người cảm thấy bị mất mát hay hụt hẫng nữa...
…Suy cho cùng cái chân lý về sự kết nối giữa các vấn đề, hiện tượng trong cuộc sống chính là quan điểm của Phật Giáo, đó là triết lý về yếu tố duyên nghiệp. Anh có thể nhận ra sự kết nối ấy nhưng không bao giờ lý giải nổi tại sao lại là những yếu tố (con người, không gian, thời gian, sự việc…) ấy kết hợp với nhau mà không là những yếu tố khác. Chính vì điều đó mà anh phải ngửa mặt kêu lên “Oh, my God!”… Phật Giáo lý giải điều ấy bằng 2 chữ “duyên nghiệp”, và đời sống này, thế giới này… là trùng trùng duyên khởi...’
- Ý kiến của bạn MN, trong entry
‘Chân lý của loài người’‘…Nếu chiêm nghiệm được rằng, cuộc sống này là 'nhân duyên', là 'sự kết nối của những dấu chấm' (Steve Jobs), thì con người sẽ sống một cách an nhiên hơn. Những đau khổ hay ham muốn... đều được chế ngự và sẽ không còn khiến con người cảm thấy bị mất mát hay hụt hẫng nữa...
…Suy cho cùng cái chân lý về sự kết nối giữa các vấn đề, hiện tượng trong cuộc sống chính là quan điểm của Phật Giáo, đó là triết lý về yếu tố duyên nghiệp. Anh có thể nhận ra sự kết nối ấy nhưng không bao giờ lý giải nổi tại sao lại là những yếu tố (con người, không gian, thời gian, sự việc…) ấy kết hợp với nhau mà không là những yếu tố khác. Chính vì điều đó mà anh phải ngửa mặt kêu lên “Oh, my God!”… Phật Giáo lý giải điều ấy bằng 2 chữ “duyên nghiệp”, và đời sống này, thế giới này… là trùng trùng duyên khởi...’
‘Đã đọc, nghe những điều này
rất nhiều trong Duyên khởi, Nghiệp báo của Phật giáo nhất là qua các sáng tác
của Thích Nhất Hạnh, giờ gặp lại trong entry của một người tự nhận chẳng biết
gì về các loại giáo lí thấy rất thú vị… "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà
đi" cũng là một nhắn nhủ ân tình của Đức Phật đến mọi người đấy. Ấy thế
nhưng thường nhân không làm được việc đó, tuy nhiên biết đi theo ánh sáng của
Người thắp đuốc âu cũng là một việc tốt lắm rồi mà...’
- Ý kiến của bạn NT, trong
entry ‘Đêm Noel không thể nào quên’
‘Mình phải đọc nhiều lần đễ
thấy Chúa và Phật sống hòa bình thế nào trong hắn...’
- Ý kiến của bạn BH, trong
entry ‘Đêm Noel không thể nào quên’
‘Cháu lại rất thích ý này của chú: "Chúa sẵn sàng đứng bên cạnh hắn và đưa tay bảo vệ hắn suốt đời mà không phụ thuộc vào số lần mà ai đó đi nhà thờ hay niệm ‘a men’.
‘Cháu lại rất thích ý này của chú: "Chúa sẵn sàng đứng bên cạnh hắn và đưa tay bảo vệ hắn suốt đời mà không phụ thuộc vào số lần mà ai đó đi nhà thờ hay niệm ‘a men’.
...Ngoài
ra, nhiều người còn nói với mình như thế này, ví dụ có một người theo
đạo Chúa mà hiểu về đạo Phật thì họ rất ngưỡng mộ, vì đơn giản suy ra là
người đó rất hiểu
về đạo Chúa, và tương tự đối với người theo đạo Phật, chẳng hạn khi nghe
câu 'hãy tìm thì sẽ gặp, hãy đến thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cho',
thiền sư Muju có nói rằng 'ai nói điều đó là không xa Phật tính' (trong
'Góp nhặt cát đá'). Và dưới giác độ nhân bản, Phật hay Chúa cũng là con
người, các Ngài chưa bao giờ tuyên bố 'ta không phải là con người', Địa Tạng Vương Bồ Tát có nói 'ta
không vào địa ngục thì ai vào địa ngục', việc siêu nhiên hóa các 'Đấng'
hay việc phân biệt giữa vật-thụ-tạo và vật-không-thụ-tạo, Lá bàng thiết
nghĩ, là xa lạ đối với không ít những người bình thường.
Cuối cùng, ‘mọi con đường đều
dẫn đến thành La Mã (= chân lý)’. Ngày sẽ qua, tháng sẽ tận, năm sẽ cùng, đời sẽ hết, cuối cùng rồi ta cũng sẽ ra
đi. Chẳng thà ta chết ở một địa ngục có tình yêu còn hơn là sống ở một thiên đường đầy huyễn hoặc: 'Mình đã
tự quên cái được gọi là ‘sắc sắc - không không’, cái được gọi là ‘vô thường’,
cái được gọi là ‘hư vô hay hư không’… , mình chỉ biết có một cái thôi, ĐÓ LÀ
TÌNH YÊU’.
Đừng rời anh nhé em ngoan
Trong tim anh có dịu dàng là em
Hồ thu đôi mắt êm đềm
Ngất ngây tình khúc ngọt mềm ai trao
Ngoan nào! hai đứa mình thôi
Chỉ nghe nhịp đập bồi hồi 'một' tim
Chỉ nhìn thấy 'một' thân hình
Chỉ còn lại 'một' khối tình ngất ngây
Trong tim anh có dịu dàng là em
Hồ thu đôi mắt êm đềm
Ngất ngây tình khúc ngọt mềm ai trao
Ngoan nào! hai đứa mình thôi
Chỉ nghe nhịp đập bồi hồi 'một' tim
Chỉ nhìn thấy 'một' thân hình
Chỉ còn lại 'một' khối tình ngất ngây
Phần 5 -
Triết lý cổ điển. Kết luận.
Không dễ dàng để mình viết về đề
tài này, người viết sẽ không nói về ‘Triết học cổ điển’ mà nói về ‘Triết lý cổ
điển’, không có ý nói là triết lý cổ điển là lạc hậu, mà ý nói là không ít
người thời ‘hại điện’ đã hơi bị thiếu sáng tạo khi viện dẫn quá nhiều các tư
tưởng cổ điển. Có nhiều cách để viết một entry, trong bài viết này, người viết chỉ
đơn giản ghi chép lại cuộc ‘đối thoại’ giữa mình và ‘ông Tiến sĩ kỳ lạ’ (xem
trong thư mục ‘Thân phận con người’) như là một phương pháp tiếp cận trong việc
trình bày ‘cảm nhận’ của mình, ngoài ra, bài viết dưới đây có sự góp ý của
một số blogger. Không phủ nhận giá trị vô cùng to lớn của triết lý cổ điển, với việc dùng từ ‘cổ điển’ chứ không phải 'cổ đại', người
viết đặc biệt tránh xa việc sa vào lý thuyết, tổng hợp, tư liệu hay chi tiết.
‘Rất tiếc là chúng ta hình như
được thế giới thừa nhận là có tài học hỏi những điều tiểu tiết rất nhanh và bắt
chước rất giỏi, nói chung là ta có tài lẻ chứ không có tài 'chẵn'. Cứ dở ra
trang sách nào ở ta thì cũng thường thấy viết rằng ‘Khổng Tử nói
rằng’, ‘Trang
Tử nói rằng’, ‘Tổ Huệ Năng dạy rằng’, ‘Lý Bạch/Đỗ Phủ/Bạch Cư Dị có
câu’,
‘Shakespeare có câu’, ‘Napoleon/Tôn Tử nói rằng’… Phải chăng xưa nay,
chúng ta đã vô hình chung đã phụ thuộc các tư tưởng của họ và vô tình
chấp nhận chúng mà không hề hay biết! (Tiến sĩ kỳ lạ - trong
entry ‘Kết nối một trăm tư tưởng thành một tư tưởng’)
Thường,
để
bảo vệ, minh họa, thậm chí là ngụy biện cho ý tưởng của mình, người ta
hay
nói là ‘Triết gia A nói rằng’, ‘Nhà bác học B nói rằng’, ‘Đại văn hào C
nói
rằng’… (đa phần là người nước ngoài và sống cách đây... xưa lắm rồi), ví
dụ người ta hay nhắc đến những cụm từ quá quen thuộc như ‘nhân,
lễ, nghĩa, trí, tín’ hay ‘công, dung, ngôn, hạnh’... Trộm nghĩ rằng, tại
sao
cho đến nay, ngày 22/04/2012, người ta lại không thể đưa ra là một người
đàn
ông thời nay phải có những đức tính gì, một phụ nữ thời nay phải có
những đức
tính gì, mà ta phải dựa vào những câu nói đặc sệt chữ ‘lễ’ của ông Khổng
Tử
cách đây 2500 năm!, phải chăng những lời cha ông ta nói lại kém tính tư
tưởng
hay kém hiệu quả hơn những câu phát ngôn của các bậc được gọi là ‘thánh
nhân’ thời
xưa mà chỉ có giá trị lịch sử mà thôi, hay phải chăng cha ông ta không
có được
những tư tưởng như vậy!
Xin
nói thêm, để có thêm cơ sở cho việc so sánh dưới đây, người viết có đọc một số
tư liệu trên Google, trên sách báo (trước và sau giải phóng), trong đó có cuốn
‘Cơ sở văn hóa Việt Nam - TS. Trần Ngọc Thêm’, thiển nghĩ rằng, mặc dù kho tàng
văn hóa VN là vô cùng phong phú, tuy nhiên nó cũng vô cùng tản mạn (xem vài ví dụ ca
dao/thành ngữ/tục ngữ ở dưới), hầu như là nói về đạo làm người, rất khó hay vô cùng khó để tìm thấy một hệ tư tưởng hay
một hệ thống ý niệm nhất quán về vũ trụ, vô cùng lớn và vô cùng bé, quy luật
vận động tuyệt đối của vật chất’, về triết lý hư vô/vô vi/vô thường, về ‘thiền’…
Ngay cả vua Trần Nhân Tông và Nguyễn Bình Khiêm (và Nguyễn Công Trứ!) được xem là
hai nhà triết học của VN (!) thì vua là người có công sáng lập ra Thiền viện
Trúc Lâm, nhưng tư tưởng của vua cũng là một sự tiếp thu tư tưởng ‘thiền’ trước
đó chứ không phải là sáng tạo nên ‘thiền của VN’ như TQ hay Nhật Bản đã làm!, còn
Nguyễn Bình Khiêm có thể hiện một số ý về ‘dịch’ khá độc đáo nhưng cũng là sự
tiếp thu tư tưởng đã có trước đó của Tàu hay đạo Phật!
Về
thuật xử thế/nghệ thuật sống, nếu Khổng Tử (551-479, TCN) nói ‘Kỷ sở bất dục,
vật thi ư nhân’ (điều gì mình không thích thì đừng làm cho người khác), thì ông
bà ta có nói ‘lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau’,
‘một câu nhịn, chín câu lành’, ‘tránh voi chẳng xấu mặt nào’, ‘ở bầu thì tròn,
ở ống thì dài’, ‘đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy’, 'sông có khúc, người có lúc'...
Về
sự vận động không ngừng của vũ trụ vạn vật, nếu ông Heraclitus (535-475, TCN)
nói: ‘không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông’ (nước không bao giờ
chảy hai lần qua một dòng sông), thì ông bà ta có nói ‘vật hoán tinh di, tang
điền thương hải (vật đổi sao dời, biển xanh biến thành ruộng dâu), ‘thế gian
biến cải vũng nên đồi (Nguyễn Bình Khiêm, 1491-1585)’, ‘thời giờ ngựa chạy tên bay, đừng
nên bỏ phí những ngày còn không’…
Về
tính hư vô, vô vi hay vô thường, đối với đời người, nếu cổ nhân có câu ‘người là cát bụi thì sẽ trở về với cát bụi’ (từ nhiều tôn
giáo), thì ông bà ta có từ ‘trần ai (=bụi
trần)’, có câu ‘đời người là bóng câu qua
cửa sổ’, ‘đời là bể khổ’, ‘sinh ký tử quy’ ‘sinh dữ, tử lành’…. đối với vũ trụ vạn vật nói chung, nếu cổ nhân có câu ‘Động mà không động, không động mà động’ hay
‘Không tức thị Có. Có tức thị Không. Có có, Không không. Không không, Có có. Có
rồi lại Không. Không rồi lại Có’, thì ông bà ta có câu ‘Có thì có tự mảy may,
không thì cả thế gian này cùng không’ (Trúc Lâm đầu đà!, 1258-1308)...
Về
‘cái biết’ vô cùng bé của
con người so với ‘cái chưa biết’ vô cùng lớn, nếu ông Pythagore
(580-500, TCN) có nói ‘đừng
thấy cái bóng to của mình trên tường mà tưởng mình là vĩ đại’, hay đại
thi hào
Goethe (1749-1832) có nói ‘lý thuyết thì màu xám, chỉ có cây đời mãi mãi
xanh tươi’, thì ông bà ta có nói ‘đi một ngày đàng, học một sàng khôn’,
‘biết thì
thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe’, 'chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng
Tổng', ‘ếch ngồi đáy giếng’, 'thùng rỗng kêu to'...
Về tính vô cùng (bé) của vũ
trụ vạn vật, nếu cổ nhân có câu ‘Trong ly
nước này có muôn vạn sinh linh’, thì ngày nay ta
biết tới hạt quart (là hạt cơ bản, trong lĩnh vực hạ hạt nhân), vi trùng hay siêu vi rồi như vius HIV, virus cúm H5N1,
vi rút viêm não Nhật Bản...
Sau đây, xin mời các bạn tham khảo ý kiến của một số blogger:
- Ý kiến của bạn TN, trong entry ‘Bàn
về một số tư tưởng’ của TN
‘Trong cả
những dòng tư tưởng trước nay xuất hiện ở nước ta thì tư tưởng Khổng Mạnh chiếm
ưu thế. Đó là một tư tưởng rất chặt chẽ và khó khăn, nhưng theo tôi nó thiếu
tính nhân văn. Nó là một dụng cụ đàn áp trên tư tưởng và trói buộc con người
theo những lề thói mà không giống thế ắt là sai, là bị lên án, phỉ nhổ. Nhưng
những tư tưởng của văn học tiến bộ phương Tây thì không chỉ thế. Họ đề cao những
tình cảm, khát vọng sống của con người. Họ trân trọng lá cờ nhân văn, họ đả
kích mọi đạo lí nào xâm hại đến quyền sống và được sống tự do của con người.
-
Ý kiến của bạn THD, trong entry ‘Kết nối
100 tư tưởng thành một tư tưởng’
‘Cái
anh bạn TS gì đó nói hình như là đúng (xem bài ‘Ông tiến sĩ kỳ lạ’)! Nghe đồn
anh ta sau khi đọc qua gần hết sách vở, chán nghe chuyện "Tử viết"
(Confucius said that...), Monsieur A parle, Master B preached...
etc, đã về quê, vào chùa, vừa quét lá… đa vừa tập ‘khí công’ luôn thể! Có người
hỏi về chuyện này, anh ta đáp (không giống như hồi xưa từng nói trong bài
trên): ‘Một trong muôn và muôn trong một (one in all and all in one). Trong giọt nước có
cả đại dương, trong hạt cát có cả sông Hằng. Tri thức nhân loại là của chung,
nên ai đó có phát mình thì ta cứ xài cho nó tiện… có sao đâu nhỉ! Có người bay
vào vũ trụ thì mình ‘quá giang’ lên đó… thì có sao
đâu!!...’
- Ý kiến của bạn Ng.N., trong
cùng entry
‘Có năm Đức Khổng, có mười Đức
Phật, có mớ trăm ngàn vị tiền bối, song còn tồn tại lòng hiềm khích - tư thù - vây
cánh, thì ngàn năm sau vẫn thế mà
thôi anh ah!’...
-
Ý kiến của bạn NTMT, trong entry ‘Kết nối 100 tư tưởng thành 1 tư tưởng’
‘Tôi
đi tìm tôi, tôi thấy tôi
Tìm tôi tôi thấy thấy tôi rồi
Thấy rồi tôi thấy tôi tìm mãi
Tìm mãi thấy tôi, tôi thấy rồi’.
Tìm tôi tôi thấy thấy tôi rồi
Thấy rồi tôi thấy tôi tìm mãi
Tìm mãi thấy tôi, tôi thấy rồi’.
…Xem
ra để bàn về việc ‘kết nối 100 tư tưởng thành một tư tưởng’ vẫn luôn là điều
nan giải anh nhỉ? Em thì đơn giản nghĩ rằng, việc học tập cũng như áp dụng
những tinh hoa văn hoá cuả nhân loại cuả mỗi nước thì không chỉ ở VN mình mà ở
cả các nước khác cũng đều đáng hoan nghênh đấy chứ. Tất nhiên, sản phẩm mà là
con đẻ của mình thì vẫn tốt hơn là con nuôi. Tuy nhiên nhìn ở sự việc nào cũng
đều phải xét trên mọi khía cạnh cuả nó. Em nhớ có lần được xem một chương trình
nói về một cô gái phương Tây dành cả cuộc đời, công sức cuả mình, sống tại VN
để theo đuổi sự nghiệp hát tuồng chèo của VN. Như thế có thể thấy mình cũng có
những cái đáng trân trọng, tự hào lắm chứ. Chỉ là một ví dụ nhỏ thôi nhé. Người
ta có Shakespeare thì mình có Nam Cao, có Vũ Trọng Phụng... ( !). Seagames thì
mình cũng tự hào vì con số huy chương vàng đạt được đáng nể... (!). Còn trên lĩnh
vực kinh tế, đương nhiên nước mình là nước đang phát triển, chứ chưa là nước
phát triển như Nhật hay Mỹ... Tương lai ai nói trước... Ví dụ nhé. Cho rằng VN mình là một... nồi
lẫu thập cẩm đi. Nồi lẫu thập cẩm phải có đủ loại phụ trợ và gia vị. Nếu không
có các loại phụ trợ và gia vị, thì nồi lẫu chỉ là một nồi nước lã. Nhưng nếu
không có nồi nước đó thì... sao gọi là lẫu, đúng không anh? He he. Ví với góc
độ vui thế thôi để thấy rằng dù xét ở phương diện nào, để có một tư tưởng lớn
thì cần phải có rất nhiều ý tưởng nhỏ. VN mình nhỏ bé thế thôi, nhưng không thể
thiếu, anh nhỉ?’…
-Ý
kiến của bạn ‘ẩn danh’, bình luận riêng trong entry này
'Bài viết triết lý cũng có phần rất thật... VN
mình đúng là hay học hỏi nhưng... cũng hay bắt
trước người khác... tại mình còn
nghèo... nhân tài chưa nhiều... nên chưa làm được gì nhiều cho đất nước… nhưng ngày nay VN cũng tiến bộ nhiều rùi... cũng mong sao
ngày càng tốt đẹp…'
6. Phần kết
luận
Để kết luận nhẹ nhàng cho Phần 5 này cũng như cho cho toàn
bộ entry ‘Trả lời các blogger về triết…’, người viết xin trích một đoạn của ‘Tiến
sĩ kỳ lạ’ kể một câu chuyện kiếm hiệp của Cổ Long (truyện ‘Ân thù kiếm lục’)
là:
“Có một kiếm sĩ Đông Doanh giỏi kiếm thuật vô cùng. Y
đi thuyền bằng đường biển đến Trung Nguyên và thách đấu tay đôi với từng chưởng
môn của các môn phái hàng đầu. Tất cả đều bị bại dưới tay y, không có ai đấu
nổi với y một chiêu! Sau đó, y tuyên bố rằng:
- Ta rất buồn vì không có ai xứng đáng đấu với ta, 7
năm sau ta sẽ quay lại.
Trong quãng thời gian đó, có một cậu bé mới mười mấy
tuổi tên là Phương Bửu Nhi. Cha, mẹ và bác của cậu mặc dù là những nhất đại
tông sư tuyệt đỉnh về kiếm thuật lừng danh một thời, nhưng đều cảm thấy rằng
không thể thắng nổi tay kiếm sĩ Đông Doanh nọ. Ba người này mới chỉ cho Phương
Bửu Nhi 3 chiêu kiếm được gọi là ‘vô địch’ của họ và nói rằng:
- Chỉ khi nào con có thể nhập 3 chiêu kiếm này thành
một chiêu thì con mới có thể rời khỏi ‘thủy cung’ này được.
Cậu bé rất thông minh, cậu không chỉ nhập 3 chiêu kiếm
thành một, mà thành một chiêu hoàn toàn khác.
Bảy năm sau, tên kiếm sĩ Đông Doanh quay trở lại Trung
Nguyên. Quả nhiên các chưởng môn của thế hệ sau cũng không thể địch lại y. Y
định nói câu:
- Ta rất buồn vì không có ai xứng đáng đấu với …
Y chưa nói kịp chữ ‘ta’ thì cậu bé xuất hiện và nói:
- Còn có ta nữa.
Thế là cậu bé bước ra, tay cầm kiếm mà như là kẻ chưa
biết cầm kiếm, dáng đi thất thơ thất thểu như một kẻ chả có chút nôi lực nào,
cặp mắt thì ngơ ngác, khờ khạo và vô hồn như chả quan tâm đến cái gì chung
quanh cả, cậu bước một cách uể oải chậm chạp đến gần tay kiếm khách đó, bất
thần cậu có vẻ sợ hãi ngã xuống dưới 2 chân của gã, thế là một tia kiếm nhanh
như chớp xẹt lên và xuyên thủng hạ bộ của gã này. Gã ngã xuống và vẫn còn kịp
nói một cách mãn nguyện:
- Cám ơn cậu bé đã cho ta thấy ‘một chiêu kiếm vô địch
thiên hạ'.
Vâng, Khổng tử, Lão/Trang tử, Aristotle, Shakespeare,
Newton, thiền… đều có những tư tưởng có thể là vô địch, nhưng không phải là
vô địch thiên hạ và cũng không thể nào mà vô địch mãi mãi. Người VN ta rất thông mình và rất tự hào dân tộc, có
ai cấm ta không được làm như 'chàng trai trẻ' kia!
Tóm
lại,
dường như nói triết lý hay triết học là một điều vô nghĩa và làm các
blogger bị… nhức đầu trong lúc cuộc sống trước mắt của họ là ‘cơm áo gạo
tiền’,
nhưng ngoài những phút giây ‘lạc quan’, trong mỗi chúng ta có thể tồn
tại nỗi
cô đơn không cùng, có thể tồn tại nỗi đớn đau đoạn trường khi người thân
ra đi hay bị ruồng bỏ, có thể tồn tại nỗi tự ti mặc cảm về những khuyết
tật tinh thần hay thể xác mà không thể nào bù đắp, có thể tồn tại nỗi
đắng cay tuyệt vọng khi thất bại
thảm hại trong chính trường, thương trường hay tình trường, có thể tồn
tại nỗi dao động dữ
dội khi phải sống trong một cuộc đời đầy vô thường
với quá nhiều những thăng trầm, có thể tồn tại nỗi ám ảnh ẩn hiện đây
đó về hai chữ hư vô…, vì thế, tiếng gọi vô cùng tha thiết của ‘tình yêu’
lại trở
nên lôi cuốn hơn bao giờ hết và cuồn cuộn trào dâng trong chúng ta như sóng
đại dương không bao giờ ngừng nghỉ…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét