TIẾNG VIỆT KHÔNG CÓ NGUỒN GỐC TỪ TIẾNG HÁN
BÀI VIẾT RẤT HAY!, NGƯỜI VIẾT RẤT CÓ TRÌNH ĐỘ!
Tiếng Nói và Chữ Viết của người Việt Nam qua các thời
đại.
I.- TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜi VIỆT NAM
Sử liệu chính xác cũng như những thư liệu
khoa học mới đều đã minh định rằng dân tộc mà ngày
nay được gọi là dân tộc Việt Nam, chính là hậu duệ của dân KEO ngày xưa từng cư
trú lâu đời ở Bắc Việt Nam. Tài liệu khảo cổ xác nhận rằng từ thời đại đá mới
đã cộng cư trên lãnh thổ Bắc Phần Việt Nam nhiều loại hình nhân chủng mà chủ
yếu là hai loại Indonésien-cổ và Australomélanésien: hai thành tố nhân chủng cơ
bản hình thành dân KEO. Dân KEO đã cư trú lâu đời ở lưu vực sông Mã cùng vùng
trung du và đồng bằng Bắc Việt từ những thời xa xưa của lịch sử. Vết tích cư
trú của họ đã được các nhà khảo cổ ngày nay phát hiện rất nhiều ở những khu vực
này.
Khi người Việt Nam đã có một nguồn gốc dân tộc lâu đời
như thế, tất nhiên tiếng nói của họ cũng có nguồn gốc xa xưa không kém. Hiện
nay các nhà ngôn ngữ học khắp thế giới hiện đều có cùng ý niệm rằng cư dân nói
tiếng MônKhmer, vào những thiên niên kỷ trước Tây lịch đã cư trú đông đúc ở
miền Đông Bắc Đông Dương cũ. Từ năm 1852, nhà ngôn ngữ học Logan, trong sách
Ethnology of the Indopacifik Island, Journal of the Indian atchipelao II, trang
658, cho rằng tiếng Việt Nam cùng họ hàng với tiếng Môn-Khmer. Năm 1852, J.F.S:
Forbes, trong sách Comparative of the languages of Furter India, trang 11, cũng
đã nêu lên sự đồng nhất giữa ngôn ngữ Việt và Môn-Khmer.
Trong quyển Les Langues du monde, nhà Đông phương học
Henri Maspéro nói tiếng Việt Nam có nhiều liên quan với tiếng Thái. Theo ông,
tuy tiếng Việt quả có thật có nhiều từ gốc Môn-Khmer nhưng không có hệ thống
đầy đủ và tất cả đều được xen vào một số lớn từ mà nguồn gốc là Thái. Maspéro
cho rằng tiếng Việt Nam và tiếng Thái đều có hệ thống thanh điệu trong khi
tiếng Môn-Khmer không có và tiếng Việt Nam và tiếng Thái giống nhau trong việc
dùng từ CON và CÁI để chỉ những vật hoạt động và không hoạt động. Ông Maspéro
kết luận rằng ngôn ngữ tiền Việt Nam đã xuất hiện do kết quả của một ngôn ngữ
Môn-Khmer, một ngôn ngữ Thái và một ngôn ngữ thứ ba hiện nay chưa biết được,
nhưng ngôn ngữ có ảnh hưởng chủ đạo vẫn là ngôn ngữ Thái.
Trong sách The Journal of the Royal asiatic society, ở
trang 427, ông C.O. Blagden tỏ vẻ nghi ngờ lề lối của Henri Maspéro trong lập
luận dựa vào thanh điệu để sắp hạng ngôn ngữ. Trong sách Les Langues du mondes
của ông, ở trang 398, ông Przyluski cũng nói lập luận của Maspéro chưa có cơ sở
và sắp tiếng Việt vào dòng họ các ngôn ngữ tộc Nam Á. Năm 1953 trong Bulletin
de la société de linguistique de Paris, ông A.G. Haudricourt bác bỏ hẳn quan
điểm của Maspéro và mạnh mẽ chứng minh những mối liên hệ giữa tiếng Việt Nam và
ngữ tộc Nam Á. Năm 1958, trong thuyết trình của ông, ông Andrewnoi chủ trương
rằng tiếng Việt Nam thuộc ngữ tộc Nam đảo. Nói tóm lại nếu dựa theo các lập
luận trên đây, có thể có hai quan điểm:
1- Nên xếp tiếng Việt Nam vào ngữ hệ Thái.
2- Tiếng Việt Nam có liên hệ với các ngôn ngữ Nam Á vì
thuộc ngữ tộc Nam Á hay Nam đảo. Những nhà ngôn ngữ học từng chủ trương tiếng
Việt Nam thuộc ngữ tộc Nam Á còn nói thêm rằng về mặt từ cơ bản, tiếng Việt Nam
có nhiều liên quan mật thiết với các ngôn ngữ Nam Á và các từ ấy đều có một hệ
thống chặt chẽ. Ví dụ như về hệ thống số đếm:
chu1.JPG
Tiếng Việt Nam cũng như tiếng Môn-Khmer đều cùng có
tiền-từ trung-từ nhưng cũng cùng không có hậu-từ. Tài liệu nhân loại học từng
cho biết người Việt Nam cũng như người Thái cùng các bộ tộc ở Nam đảo đều có
liên quan đến chủng tộc Indonésien-cổ, cho nên thiết nghĩ sự liên quan mật
thiết về ngôn ngữ đã bắt nguồn từ sự xuất phát từ một nguồn gốc chung từ những
thời xa xưa của lịch sử.
Một số học giả chịu nặng ảnh hưởng của Hán nho, cho
rằng tiếng Việt cùng một nguồn gốc với tiếng Trung Hoa. Đó là một sai lầm lớn lao.
Sử liệu về thời Thái thú Sĩ Nhiếp cũng như thời Mã Viện đều chứng minh người
Việt Nam xưa không cùng ngôn ngữ với các dân tộc ở về phương Bắc nước mình.
Trong sách TIỀN HÁN THƯ có kể chuyện: „đời Đào Đường có sứ bộ xứ Việt Thường ở
phương Nam tới triều với NHIỀU NGƯỜI THÔNG DỊCH. Họ biếu con rùa thần… Nếu quả
thật cùng một ngôn ngữ thì đâu phải cần đem theo nhiều thông dịch viên. Dầu
phải công nhận rằng sau gần ngàn năm Bắc thuộc, có nhập vào ngôn ngữ Việt thêm
một số từ gốc Hán nhưng không thể vì thế mà nói rằng tiếng Việt Nam có cùng
nguồn gốc với ngôn ngữ Hán. Nhất là khi ngữ pháp của hai ngôn ngữ lại quá khác
biệt. Ví dụ: trong tiếng Việt hình-dung-từ khi nào cũng đứng sau danh-từ chớ
không đứng trước như ngôn ngữ Trung Hoa. Nếu người Việt Nam nói con ngựa trắng,
cái áo xanh, ông Mạnh, thành Hà Nội; thì người Trung Hoa nói bạch mã, thanh y,
Mạnh tiên sinh, Hà Nội thành.
Như thế sau gần ngàn năm Bắc thuộc, tiếng Việt Nam đã
hội nhập thêm một số từ Hán, để làm cho tiếng Việt Nam được phong phú hơn. Những
ảnh hưởng chủ đạo đã cấu thành hình thái của tiếng Việt Nam đã được ổn định từ
lâu trước thời tiếp xúc với Trung Hoa. Nhờ vào vốn liếng bền vững về ngôn ngữ
đó mà sau này sau gần ngàn năm bị đô hộ, ngôn ngữ Việt Nam chẳng những không bị
tiêu diệt, trái lại còn phong phú thêm hơn. Tiếng nói còn thì dân tộc còn.
Trong khi hàng trăm bộ lạc hay tiểu quốc ở phía Bắc nước Âu Lạc đều bị đồng hóa
hết thì dân tộc Việt Nam vẫn bảo vệ được tiếng nói đặc thù của mình, một phần
nhờ tiếng nói của dân tộc Việt Nam đã được ổn định lâu từ trước do sự thể Tổ
Tiên người Việt đã cư trú lâu đời trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam từ những thời
xa xưa của lịch sử.
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TIẾNG VIỆT QUA CÁC THỜI ĐẠI
Nếu có một phép lạ nào làm cho một người Việt Nam ngày
nay gặp được người Việt thời cổ nói chuyện thì chắc chắn người Việt Nam ngày
nay sẽ không hiểu tiền nhân mình muốn nói gì. Sở dĩ có tình trạng đó là do
tiếng nói của dân tộc đã biến đổi quá nhiều qua các thời đại và chính nhờ những
biến đổi đó mà tiếng Việt đã có thể trở thành tuyệt vời như hiện tại.
Các truyền thuyết của người Kinh (danh xưng để gọi
người Việt ở đồng bằng) và các truyền thuyết của các bộ tộc thiểu số đã cùng
nhau cư trú lâu đời ở Bắc Việt Nam đều nói lên những liên quan mật thiết do
cùng có chung một nguồn gốc từ thời buổi xa xưa của lịch sử. Nhất là giữa người
Mường và người Kinh. Sử liệu từng cho biết người Mường nguyên xưa là người Việt
từng bỏ đồng bằng lên miền núi rừng để tránh họa đồng hóa của ngoại bang xâm
lăng. Vì thế có thể nói người Mường là tiêu-bản còn lại của người Việt thời
tiền sử. Ngôn ngữ Việt và Mường đều cùng có các yếu tố Thái và Môn-Khmer. Nên
việc nghiên cứu ngôn ngữ người Mường có thể tạo nhiều dễ dàng trong công việc
tìm hiểu tiếng nói của dân tộc Việt Nam thời tiền sử. Qua các thời đại, tiếng
nói của người Việt Nam xưa biến đổi mau lẹ nên lắm khi có thể hậu duệ ngàn năm
sau khó hiểu được ngàn năm trước tiền nhân mình muốn nói gì. Ví dụ như trong
một đoạn trích sau đây của luận bàn về chữ viết của người Việt-cổ trong sách
THANH HÓA QUAN PHONG của Vương Duy Trinh, nếu được âm lại theo chữ quốc ngữ
ngày nay sẽ là:
„Du xu dưỡng hứa ão để ba cỏ hương cúc tẩy khu mu đơn
tây hương tiêu bông ba hoàng thiên nào du xu mông nồng tối báo kham nô hy châu
rõ khoan hiểm bông uẩn hủ. Cú nam báo kiểu dốc liễu hiên sơ chưa giác niêu huấn
bộ mi phương ứng chính khu tục ôi khoan hy…“.
Với những lời văn như thế, nếu không có những nhà ngôn
ngữ học giải thích lại thì làm sao chúng ta có thể hiểu được ra là:
„… hoa vàng ở trên cao, làm sao lấy được, anh cũng lấy
hương vàng thắp đủ ngày khấn hương đăng, khấn trời ở trên cao, trời ở trên cao
trông xuống cùng giúp hay không biết có anh cùng em cùng mến lòng nhau không ?
Mến lòng làm bạn với nàng mà không theo đến, anh thì lòng muốn bẻ lấy cội cây
hoa, muốn lấy cây hoa mà người khác tranh lấy tức lắm hỡi!“.
Hoặc nghe nói những lời sau đây, nếu không được giải
thích thì khó được để hiểu:
Khây khươc mang pêu Pô ràng có môch ông, thên hôp là
ông Tùng mà cỏ lại bơ chồng: nã nú ra tế nĩ lấp cái ksông Pồ. Nã tan lễ ksông Pô
pao thất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tê nã lấp ksông. Lòng klời ksinh tha moch
ông hộp là ông sách, mê thương mê thếch pât bởi ông Tùng. Nã mê pao lồ, nã to
ming nó tha nã mê pất ông Tùng. Ông Tùng mê chãi hết ming mê chết. Cho dênh cái
ksông dĩ chãng lấp ẩu, mê danh cái Thác pờ di.
Nghe nói như vậy thì nên hiểu rằng:
„Khi trước nghe người ta nói rằng có một ông tên gọi
là ông Tùng mà có hai vợ chồng: nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bồ vào đất Thạch
Bi. Vợ nó mới đi lấy đá để lấp sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt
mới xuống mới thách vật với ông Tùng. Ông Tùng mới chạy hết mình mới chết. Cho
nên cái sông ấy chấp lấp được nên mới có cái thác ấy“.
Bài „Mộng Ký“ trong sách THÁNH TÔNG DI KHẢO có kể lại
việc vua Lê Thánh Tông vào một đêm mưa gió nghỉ đêm gần hồ Trúc Bạch đã nằm
mộng thấy một người con gái dâng một bức tấu thư gồm 71 chữ ngoằn ngoèo không
thể đọc hiểu được, ngay cả triều đình cũng thế. Ba năm sau lại có dịp nằm mộng
thấy một tiên ông thổi sáo, nhà vua hỏi về lối chữ lạ đã thấy năm xưa thì tiên
ông cho biết „đó là chữ cổ của nước Nam, nay ở miền núi còn nhiều người đọc
hiểu được“. Nhờ vậy vua Lê Thánh Tông mới hiểu được lời lẽ trong bản tấu.
Xem như thế đủ rõ nhiều danh xưng Việt-cổ đã biến đổi
theo thời gian. Ví dụ như cau trầu ngày xưa được nói là ping nang và bu liu. Bu
liu là phiên âm của TRẦU trong tiếng Việt-cổ qua đầu Tây lịch biến thành bliu,
vài thế kỷ sau thành blô, đến thế kỷ 17 biến thành blầu và đến nay biến thành
trầu. Ngày xưa CAU được gọi pinang sau biến thành M’nang, ngày nay người Mường
gọi là nang, còn nếu người Việt ngày nay nói mo nang có nghĩa là mo cau. Danh
xưng Mỵ Nương ngày xưa là mệ nàng. Con gái ngày xưa được gọi là mại. Ngày nay
mái chỉ còn được dùng để chỉ những loại chim chóc hay gia cầm thuộc giống cái.
Ví dụ như con gà mái. Trưng Trắc chỉ là danh xưng của vị nữ anh hùng Việt Nam
đã được người đời sau phiên âm theo tiếng Hán. Người Việt ngày xưa gọi Bà là
Mling Mlak.
Tiếng nói của người Việt lại còn đôi khi biến giọng vì
những biến cố đã tuần tự xảy ra. Như khi trên lãnh thổ mà ngày nay được gọi là
Trung Hoa có loạn Xuân Thu Chiến Quốc (thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước Tây
lịch), một số cư dân miền lưu vực sông Dương Tử cùng dân vùng đông nam Trung
Hoa đã di tản bằng đường biển sang đất Việt tỵ nạn ở vùng Kinh Bắc, vùng Phong
Châu. Hoặc sau khi thắng được hai Bà Trưng, Mã Viện đã đưa sang đất Việt hàng
ngàn tội nhân, dân nghèo Trung Hoa cùng ngược lại đày sang vùng lưu vực sông
Dương Tử hàng ngàn người Việt từng trung thành với hai Bà. Những người mới đến
dầu sao cũng chỉ là thiểu số nên phải uốn theo tập tục của người bản địa và
trong các cuộc đàm thoại họ phải uốn lưỡi nói theo giọng bản xứ để được thông
cảm. Lần lần giọng nói ở những vùng này theo thời gian cũng biến đổi, nhất là
vùng dân cư ở phía Bắc lưu vực sông Hồng.
Trong lời nói phần nhiều đã mất hẳn âm R và có nhiều
lẫn lộn giữa L và N. Ví dụ như cao niên thì lại nói cao liên chẳng hạn. Tuy
nhiên sự pha trộn giữa số đông người Việt và thiểu số người mới đến tại các địa
phương chắc chắn không phải đâu đâu cũng cùng một tỷ lệ cho nên ở những chỗ
càng xa xôi hiểm trở thì thành phần người mới đến lại càng ít. Hiểm trở nhất
thời đó là phần đất đầy núi non hang động đủ cỡ thuộc vùng Thanh Hóa, Nghệ An
ngày nay. Nếu tại lãnh thổ phía Bắc, dầu những người mới đến đều bị Việt-hóa đi
nữa nhưng những sai biệt về mức độ pha trộn nòi giống tạo thành những sai biệt
về âm thanh, thói quen ăn nói lẫn những khả năng phát âm. Giọng nói của cư dân
vùng lưu vực sông Hồng thanh cao hơn lên và âm cũng biến đổi. Cư dân ở đây và
nhất là những cư dân phía Bắc sông Hồng lần lần quên mất nhiều tiếng cổ mà Tổ
Tiên họ vẫn dùng. Những người Việt ở vùng Thanh, Nghệ Tịnh không bị ảnh hưởng
của sự pha trộn giống cũng như ít tiếp xúc với những người mới đến nên bảo thủ
được ngôn ngữ, giữ được giọng xưa, âm xưa. Tiếng nói họ có vẻ nặng nề hơn. Vì
vậy vào thời kỳ này dân Việt Nam tuy có chung một ngôn ngữ nhưng đã có hai hệ
thống khác nhau: giọng nói Bắc và giọng nói Thanh Nghệ.
Năm 1609 vua Lý Thánh Tông cất quân đánh Chiêm Thành.
Vì phải đề phòng quân Tống từ Trung Hoa có thể tràn sang nên nhà vua chỉ sử
dụng các lộ địa phương quân của các tỉnh phía Nam tức là Thanh Hóa, Nghệ An.
Sau khi thắng lợi thu được ba châu Địa Lí, Bố Chính và Ma Linh, thì những người
Việt đầu tiên di dân đến ở đây đều là dân dinh của các lộ quân xuất phát từ
Thanh Hóa, Nghệ An, và sau đó là gia đình họ. Những di dân Việt này tới vùng
đất mới, tất nhiên có sự tiếp xúc với dân Chiêm còn lại trong vùng. Muốn được
để thông hiểu, trong lối nói có đôi chút đổi giọng. Thêm vào đó sự pha giống là
những điều tất phải có và tất cả đã tạo ra những biến ngữ mới, tạo thành giọng
nói đặc biệt của vùng Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay kèm theo sự thay đổi ngữ-
thể của nhiều từ. Ví dụ như nói nác thay vì nói nước, hoặc cái đao thay vì cái
dao… Các vần anh, ách, ênh, êch, inh, ích nói thànhaen, aet, un, út, in, ít.
Năm 1307, Công Chúa Huyền Trân lấy vua Chiêm là Chế
Mân. Nhà Trần thâu về được hai châu Ô, Lý, tức là khoảng lãnh thổ từ sông Thạch
Hãn của tỉnh Quảng Trị đến gần sông Thu Bồn của tỉnh Quảng Nam ngày nay. Những
người di dân Việt vào khai khẩn vùng đất mới này là dân vùng Quảng Bình, Quảng
Trị với giọng nói đã được biến đổi. Có lẽ vì lần này lãnh thổ Ô, Lý được đổi
chủ một cách hòa bình nên dân Chiêm ở lại nhiều hơn. Giọng nói người di dân pha
giống với dân bản địa đã tạo thành giọng nói đặc biệt của người vùng Thừa Thiên
(Huế) hiện nay. Trong việc hội nhập với người Chiêm, người di dân Việt thường
uốn cong thêm đầu lưỡi mà nói an, át, en, et, on, ot, ôn, ót thành ra ang, ac,
eng, ec, oong, oc, oông, ooc. Tỉnh Quảng Nam cũng được thành lập sau khi vua
Chiêm là Trà Toàn bị quân viễn chinh của vua Lê Thánh Tông đánh bại.
Sử liệu cho biết rằng phần lớn di dân đến tỉnh này là
cư dân tỉnh Nghệ An được đưa vào bằng đường biển nên vì vậy sau này giọng Quảng
Nam tuy hơi thanh nhưng còn phảng phất giọng nặng nề của người Nghệ An. Sử liệu
cũng có cho biết rằng quân đội viễn chinh Việt tiến đánh vùng Bình Định ngày
nay, bao gồm quân phát xuất từ Nghệ An Hà Tịnh cộng thêm với dân quân từ Quảng
Nam, nên giọng nói Nghệ Tịnh pha lẫn giọng Quảng Nam đã tạo ra giọng Bình Định
và chính giọng Bình Định về sau ảnh hưởng nhiều đến giọng nói các cư dân các
tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận mà các chúa Nguyễn Phúc Tần và Nguyễn
Phúc Chu đã chiếm lĩnh được.
Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, một số cư dân vùng
phụ cận sông Gianh vì chán cảnh khổ cực triền miên vì binh đao đã theo đường
biển vào Nam và tấp vào vùng đất mà ngày nay được gọi là Bà Rịa và Biên Hòa.
Vùng đất hoang vu này thuở đó thuộc nước Chân Lạp và rất thưa dân. Nước Chân
Lạp đang gặp cảnh nội bộ phân tranh phải cầu cứu với chúa Nguyễn. Năm 1658,
chúa Hiền can thiệp vào nội biến ở đấy và bắt vua Chân Lạp Nặc Ông Trấn phải
triều cống và nhượng lại đất Bà Rịa và Biên Hòa.
Ở Trung Hoa nhà Thanh triệt hạ được nhà Minh. Khoảng
năm ngàn người Trung Hoa không chịu làm tôi nhà Thanh nên bỏ trốn sang miền
Trung nước Việt được chúa Nguyễn cho vào khai khẩn đất Đông Phố tức đông bộ Nam
phần Việt Nam ngày nay.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu chia đất Đông Phố ra làm
hai dinh Trấn-Biên và Phiên-Trấn cùng mộ thêm dân cận vùng Hoành-Sơn đưa vào.
Cùng thời có Mạc-Cửu người tỉnh Quảng Đông sang lánh nạn được chúa Nguyễn cho
khai khẩn vùng đất Hà Tiên. Nhân tiện Chân Lạp đang có nội loạn, chúa Võ Vương
bèn can thiệp rồi cho thu luôn phần đất phía Tây.
Đến cư trú tại vùng đất mới lại thường chung đụng với
người Chân Lạp, người Trung Hoa, tất nhiên sự pha giống là điều tất phải có.
Trong cuộc sống hàng ngày, muốn có sự thông cảm, mỗi người phải sửa giọng nói
của mình lúc nói chuyện. Lần lần theo thời gian dân cư vùng đất mới này nói
tiếng Việt với một giọng lẫn lộn Việt, Chiêm, Miên, Trung, mà mọi người đời nay
gọi là giọng Nam. Giọng nói nhân cuộc sống chung chuyển theo nhịp điệu mau hơn,
bớt những âm cần đè nặng lưỡi xuống để lưỡi dễ cong sát lên hàm trên. Dân ở đây
thường nói ê thành e, ươn thành ương, ớt thành oóc, en thànheng, êt thành ót,
ít thành ích, ước thành ức, ướp thành úp, uoi thành ui. Đôi khi họ nói mau đến
ríu tiếng lại với nhau. Ví dụ như ngoài ấy thành ngoải.
ẢNH HƯỞNG CỦA CỔ NGỮ, THỔ NGỮ VÀ THỔ ÂM ĐỐI VỚI TIẾNG
NÓI
Người Việt Nam, dầu cư trú ở miền Bắc, miền Trung hay
miền Nam đều nói chung một thứ tiếng. Tuy giọng địa phương nặng nhẹ có khác
nhau chút ít theo từng địa phương, người Việt Nam vẫn dễ dàng hiểu nhau. Như đã
nói trước đây, giọng nói của người Việt Nam có biến đổi phần nào, hoặc do sự
tiếp xúc với ngoại bang hoặc do những biến cố kế tiếp xảy ra trong tiến triển
Nam tiến của dân tộc.
Ở miền Bắc hiện trạng thổ ngữ đa dạng phức tạp ở nông
thôn là phản ảnh cội rễ lâu đời nói lên tính chất biệt lập của các thôn xã ngày
xưa ở đây. Tại đồng bằng Bắc Việt, có khi hai thôn cách nhau không xa mà thổ
ngữ lại khác nhau; chỉ cần nghe qua giọng nói cũng có thể phân biệt người thôn
nọ với thôn kia. Ngoài thổ ngữ còn vấn để cổ ngữ. Trung và bắc Trung phần Việt
Nam là những nơi còn lưu dụng rất nhiều cổ ngữ. Tuy vậy những cổ ngữ thường chỉ
nghe hơi lạ tai chớ không phải là khó hiểu. Ví dụ như nghe một người nào ở đó
nói: „tlâu ăn giữa vạc ló lỗ đã ngụy chưa tề thì vẫn có thể hiểu trâu ăn giữa
vạc lúa trổ đã ngụy chưa kìa. Hay là mặt blời đã lặn ngang tầm bụi tle thì có
thể hiểu mặt trời đã lặn ngang tầm bụi tre. Hoặc khi nghe họ hò:
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cộ con đò khác đưa.
Cây đa bến cộ còn lưa,
Con đò còn đó người đưa đâu rồi.
Thì nên nhớ cây đa là cây da, bến cộ là bến cũ, còn lưa là còn lại.
Lâu đời như dòng giống Việt Nam, tiếng Việt ra đời từ
khi có thủy tổ người Việt Nam thành hình, nên tiếng Việt gắn liền với số phận
nổi chìm của đất nước. Suốt gần ngàn năm Bắc thuộc, Hán nho được các Thái thú
Tàu cho phổ biến sang đất Việt hòng để thực hiện một chính sách nô dịch nặng nề
về tư tưởng hay văn hóa với nhân dân Việt Nam. Xã hội xưa từ đó được tổ chức
theo khuôn khổ của Hán nho nên giới quan lại giúp vua trị nước phải là người
trong phái nhà nho. Đến khi nước nhà được tự chủ, giới quan lại thuộc nho phái
này tuy là người yêu nước đã có ý thức rõ rệt về độc lập chính trị cùng chủ
quyền lãnh thổ nhưng lại khá mơ hồ về độc lập văn hóa. Khi cần suy tư về văn
hóa tư tưởng, những người „NAM NHÂN BẮC HƯỚNG“ này vẫn lấy văn minh, văn hóa
Trung Hoa làm hệ thống qui chiếu. Trong khi quần chúng Việt Nam nói tiếng mẹ đẻ
thì họ vẫn xử dụng chữ Hán, tiếng Hán, để tỏ họ thuộc giới trí thức. Tiếng Hán
được dùng làm văn tự trong khi tiếng mẹ đẻ bị ruồng rẩy xem là „nôm na mách
qué“. Vì vậy suốt thời gian dài gần 19 thế kỷ tiếng Việt không ai dạy mà cũng
chẳng có ai học. Người Việt nói tiếng Việt là do bản tính tự nhiên. Khắp nước
không có một trường dạy nói tiếng mẹ đẻ. Khắp nước không có một bộ tự điển, chỉ
mải đến thế kỷ 19 mới có quyển tự điển đầu tiên là ĐẠI NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ của
Huỳnh Tịnh Của.
Tiếng Việt ngày xưa không được xem là quốc gia văn tự,
do đó ở các trường không dạy, các học giả không ai để tâm nghiên cứu, nên người
Việt Nam cứ theo thói quen thuở nhỏ mà nói, cứ thuận miệng mà đọc, nên có những
âm thanh vì thế mà sai lạc đi, thành ra nơi này khác với nơi nọ.
Ở Bắc Việt thường nói và viết sai những phụ âm ở đầu
các tiếng. Lầm âm tr với âm ch, âm d với âm gi, âm s lẫn với âm x.
Ở Nam Phần thường nói và viết sai những phụ âm ở cuối
tiếng. Âm C sai thành âm T, AC thành AT, UÔC thành UOT. Âm T sai thành âm C, AT
thành AC, UÔT thành UÔC. Vì vậy cũng không nên ngạc nhiên lắm khi thấy người
miền Nam nói và viết vát cuốc thay vì vác cuốc, nhác gan thay vì nhát gan… Người
miền Nam cũng thường nói và viết sai âm N thành NG (như căn bổn thành căng bổn,
kiên nhẫn thành kiêng nhẫn...) hoặc ngược lại âm NG thành N (ngang dọc thành
ngan dọc, buông tha thành buôn tha…).
Có nơi người Việt viết đúng nhưng lại đọc sai: Như ở
Nam Phần phụ âm V đọc như D: đi về thì nói đi dề, hoặc vợ chồng thì nói dợ
chồng. Ở vùng Thừa Thiên thì phụ âm NH đọc như GI. Viết trong nhà mà lại nói
trong già.
Đôi khi khác biệt trong tiếng nói cũng do phong thổ mà
ra. Nhiều khi cùng một từ mà người miền Nam và người miền Bắc lại dùng nguyên
âm khác nhau:
chu2.JPG
Sự kiêng tên húy vua chúa hay thần thánh cũng là một
cớ cho sự thay đổi nguyên âm tại một vài nơi:
– Ở Bắc tùng được nói là tòng vì kiêng tên chúa Trịnh
Tùng hoặc cang nói cương vì kiêng tên chúa Trịnh Can.
– Ở Nam thì hoàng nói là huỳnh vì kiêng tên húy chúa
Nguyễn Hoàng, Phúc được nói thành Phước vì kiêng chữ Phúc trong họ Nguyễn Phúc
hoặc tiếnghồng nói thành hường vì kiêng tên húy Hồng Nhậm của vua Tự Đức.
Sự kiêng tên như thế nên nhiều vùng trong nước nhiều
tiếng đã được nói sai chính âm đi, ví dụ như thật nói thành thiệt hay thực,
hoặc thì thì nói thànhthời, nhưng dầu có thay đổi lối nói thế nào, giữa người
Việt với nhau vẫn không có gì khó hiểu.
Trong ít nhiều tiếng, người ở Nam Phần dùng phụ âm này
thì người ở Bắc Phần lại dùng phụ âm khác. Ví dụ như người Việt ở Nam Phần nói:
trời, trồng, tro, nhuộm, lời, lẽ, lanh, nhành… thì người ở Bắc Phần lại nói
giời, giồng, gio, duộm, nhời, nhẽ, nhanh, cành.
Có những tiếng được dùng nhiều ở Bắc Phần nhưng ở
trong Nam Phần lại ít được dùng hay không biết hẳn. Ví dụ như người ở miền Nam
nói bông, trái, rương, đặng, kiếm v.v…, thì người ở miền Bắc nói hoa, quả, hòm,
được, tìm...
Từ 1945, chữ quốc ngữ đã được nâng lên văn tự quốc gia
nên qua việc học hành hay sự phổ biến sách báo bằng Việt ngữ thì những lối nói
sai, viết sai đã được sửa đổi lại. Hệ thống giao thông ngày càng thuận tiện hơn
trước, cùng những sự di cư đã làm giảm bớt những sai biệt do phong thổ tạo ra.
NHỮNG ÂM TƯỢNG HÌNH TRONG TIẾNG VIỆT
Đặc điểm lạ lùng nhất của tiếng Việt Nam đã được học
giả Lê Văn Siêu nêu lên trong sách Nguồn gốc văn học Việt Nam là những khả năng
tượng hình các vật và các việc của một số âm trong tiếng nói. Theo ông, dường
như có một số âm gốc với những tiếng gốc của nó mà người xưa luôn luôn dùng
tới, vừa dùng vừa làm dấu hiệu để rồi theo với thời gian và theo với những
trường hợp đặc biệt, nó nảy sinh ra những tiếng khác, tuy nghĩa có khác đi
nhưng tính cách đại thể vẫn không đổi. Mỗi âm do đó được mặc nhiên nhìn nhận là
dấu hiệu để tượng hình ra vật gì không thể tưởng được. Nếu chữ tượng hình dùng
hình vẽ để diễn tả thì trong tiếng Việt Nam có những âm tượng hình dùng âm
thanh để diễn tả.
– ÂM „ Í“ CHỈ NHỮNG GÌ NHỎ NHÍT Ví dụ: con chí là con
vật bé tí mà nếu mình không mở to mắt ra mà chỉ mở hi hí hay ti hí thì không
thể nào thấy được. Trong mọi giống chuột, con chuột nhỏ nhất là con chuột chí.
– ÂM „Ì“ CHỈ NHỮNG GÌ NẶNG NỀ BÉO MẬP Người béo mập
thì bụng cứ muốn phì ra, dáng đi thì ì ạch,
– ÂM „Ọ“ CHỈ NHỮNG GÌ ĐEN ĐỦI, XẤU NGƯỜI, XẤU NẾT Mặt
nhọ là mặt có vết dơ. Chơi nhọ là chơi xấu không lịch sự. Con bọ là con vật ăn
bám đáng khinh. Con vọ là chim ăn đêm phá mùa màng. Người quạu quọ là người có
tính nết cáu kỉnh. Người lọ là người lố lăng đáng ghét.
– ÂM „Ơ“ CHỈ NHỮNG TRẠNG THÁI TÂM LÝ LẠ LÙNG Khi thấy
lạ thì mặt mày ngơ ngác. Giữa những người lạ thì bơ vơ một mình, mắt đờ ra như
một người khờ, thấy gì cũng ngờ ngợ, dễ bị sợ sệt. Người đờ đẩn đâm ra dớ dẩn,
chờ mà không biết chờ gì, nhớ mà không biết nhớ ai, mặt mày phờ phạc, trí óc lờ
mờ…
– ÂM „Ò“ LẤY CÒ LÀM TIẾNG GỐC, CHỈ NHỮNG VIỆC MỆT
NHIỀU LỢI ÍT KHÔNG RÕ RÀNG Con cò hay đi lò dò ở bờ ao để mò tôm tép. Làm việc
mà chưa biết cách gọi là làm mò. Lạ đường phải vừa đi vừa hỏi là dò đường. Thò
tay xuống nước để mò cua bắt óc… Đưa câu chuyện ra để nghe ngóng ý tứ của người
ta là dò ý. Những việc mệt sức nhiều mà lợi ít thì khác gì tò vò nuôi nhện, như
con bò làm nhiều mà ăn ít.
– ÂM „ÓT“ DIỄN TẢ SỰ VIỆC TỪ THẤP LÊN CAO Cao chót vót
là cao quá khó với tới hoặc khó lên tới được. Thót lên yên ngựa là nhảy thật
mau từ dưới đất lên ngồi trên yên ngựa. Vót là dùng dao gọt từ dưới lên trên.
Tót vòi là cao quá không có gì sánh được. Trót dại là lỡ có lỗi với người trên.
– ÂM „ONG“ TẢ HÌNH DÁNG NHỮNG VẬT CONG Con ong có thân
hình cong theo nhiều chiều. Cái nong để phơi lúa có hình tròn. Cái lọng khi
được giương lên để che nắng cho các quan thì có hình tròn. Đong lúa là dùng cái
đấu hình tròn mà lường. –
ÂM „OĂN“ TẢ SỰ UỐN CONG NHIỀU LẦN Đường ngoằn ngoèo là
đường quanh co. Xoăn xe là cứ quanh quẩn bên mình. Băng khoăng là không biết xử
trí làm sao. Loăn xoăn là hơi cuộn lại. Loăng quăng là chạy quanh quẩn, không
đích.
– ÂM „OAY“ TẢ THỂ ĐỘNG THEO ĐƯỜNG TRÒN NHIỀU LẦN Xoay
nghĩa là quay tròn. Xoáy là nơi gặp gỡ của các luồng nước khiến nước quay tròn
và lõm xuống. Loay hoay là bối rối, quay đi, quay lại không biết xử sự như thế
nào. Xoay vần là nói cuộc đời thay đổi. Ngoáy là quay đảo theo hình vòng tròn.
– ÂM „OM“ TẢ CẢNH Ở TRÊN CAO NHÌN XUỐNG DƯỚI Lom khom
dưới núi tiều vài chú. Lưng cúi cong xuống đi lom khom như người già. Đống củi
cháy lom nhom. Lửa lom nhom là lửa nơi bếp thấp mới bắt đầu bén vào củi.
– ÂM „ÓP“ CHỈ NHỮNG VẬT ĐƯƠNG TO BỊ LÀM NHỎ LẠI, HOẶC
ĐƯƠNG TRÒN BỊ ÉP MÉO Sự ép ấy gọi là bóp. Củ cải phơi xong bị tóp lại. Cái lon
tròn hay hộp giấy vuông bị méo đi một chỗ gọi là móp. Tre hóp là tre nhỏ hơn
các loại tre khác. Chóp nón là chỗ nhỏ nhất trên cùng của nón. Thở thoi thóp là
thở rất yếu.
– ÂM „UÔT“ CHỈ MỘT TÌNH TRẠNG TRƠN TRU DỄ TUỘT HOẶC
QUÁ MỨC Cầm một vật trơn mà để rơi gọi là tuột tay. Sờ nhẹ lên da người hay
lông thú gọi là vuốt. Lấy dao gọt cho tròn và trơn gọi là chuốt. Trời lạnh quá
tê cả người gọi là lạnh buốt. Cởi quần thả xuống gọi là tuột quần.
– ÂM „ẤP“ DIỄN TẢ MỘT VIỆC LÀM TỪ TRÊN CAO XUỐNG DƯỚI
THẤP Con gà ấp nằm phủ lên trên trứng để lấy hơi nóng làm cho trứng nở. Ngã sấp
là ngã từ trên cao xuống nằm dài úp mặt xuống. Lấp đất là đổ đất xuống hố sâu
cho đầy hố. Nấp là trốn vào một nơi kín cho khỏi bị thấy. Đang đi chân đụng vật
gì gọi là vấp.
– ÂM „ẬP“ CŨNG DIỄN TẢ VIỆC LÀM TỪ CAO XUỐNG THẤP
NHƯNG LANH HƠN Lưỡi dao phập xuống là lưỡi dao chém xuống thật lanh và mạnh.
Dập tắt ngọn lửa. Đập đá là dùng búa đánh mạnh vào đá cho vỡ ra. Ngập nước là
nước trên cao đổ xuống khiến mọi thứ ở dưới bị chìm nằm dưới nước. Lạnh quá hay
sợ quá thì run lập cập. Gẫy gập là gẫy nửa nọ đè lên nửa kia. Trên đây chỉ giới
thiệu tượng trưng một số tiếng tượng hình trong tiếng Việt Nam. Đặc điểm này
của tiếng nói dân tộc chứng tỏ người xưa đã sử dụng thông minh của họ để làm
giàu cho tiếng Việt Nam.
TIẾNG VIỆT NAM RẤT PHONG PHÚ
Có người nói rằng tiếng Việt Nam nghèo không đủ từ để
diễn tả chính xác như tiếng Pháp, tiếng Anh v.v… Khi phát biểu như vậy những
người đó vô tình tự thú nhận chính họ nghèo tiếng Việt. Khác gì một thiếu niên
rời quê hương lúc còn quá trẻ đến nước tiếp thu thì ở đây chỉ nói tiếng bản xứ
nên thiếu niên quên lần tiếng mẹ đẻ nên lần lần chỉ nói tiếng của người bản xứ.
Tiếng Việt Nam không có nghèo, trái lại rất phong phú là khác.
Thật ra trước đây tiếng Việt Nam có thiếu những danh
từ khoa học kỹ thuật vì trong nước chưa có hoạt động khoa học nào cả. Nhưng một
khi khoa học, kỹ nghệ trong nước phát triển thì sự thiếu sót kia sẽ không còn
nữa, vì việc làm bao giờ cũng phải đi trước tiếng nói. Bằng cớ là chỉ trong
vòng mười năm gần đây tiếng Việt Nam được tăng thêm hàng ngàn danh từ khoa học
kỹ thuật.
Có người nói đó là những từ vay mượn. Nhưng về việc
vay mượn tiếng ngoại quốc, thử hỏi trên thế giới hiện nay, có nước nào khỏi vay
mượn tiếng nước ngoài. Nhưng độc đáo hơn tiếng các nước khác, tiếng Việt Nam có
thể vay mượn tiếng nước ngoài đem về, trước khi sử dụng đã Việt hóa những từ
đó. Ví dụ:
– Từ HẠ của tiếng Hán, hội nhập vào tiếng Việt Nam
thành HÈ.
– Từ XA của tiếng Hán, hội nhập vào tiếng Việt Nam
thành XE.
– Từ MÁT của tiếng Môn, hội nhập vào tiếng Việt Nam
thành MẮT.
– Những từ như autobus, casseroles, alcool, gare,
essence tiếng Pháp thành xe buýt, soong, cồn, nhà ga, xăng của tiếng Việt hoặc
những từ aluminium, tank của tiếng Đức trở thành nhôm, xe tăng của tiếng Việt.
Từ nào của ngoại quốc không biến âm được thì thường được xoay ra dịch nghĩa
hoặc phiên âm theo ngoại ngữ.
Một ví dụ để chứng tỏ tiếng Việt Nam không nghèo mà
ngược lại rất phong phú không kém bất cứ tiếng nước nào. Như từ PORTER (của
tiếng Pháp) hay từ TRAGEN (của tiếng Đức) dịch sanh tiếng Việt là MANG. Nhưng
muốn nói rõ mang cách nào thì người Pháp (hay Đức cũng vậy) phải thêm nhiều từ
sau động từ PORTER, như porter sur la tête (mang trên đầu), porter sur l’épaul
(mang trên vai), porter sous le bras (mang dưới nách) v.v… trong khi đó thì
trong tiếng Việt Nam có cả một loạt động từ có ý nghĩa tương đương RẤT GỌN và
GỢI HÌNH như: mang, xách, ẵm, bồng, cầm, cõng, đeo, đèo, đội, gánh, gùi, ôm,
quảy, vác, khiêng v.v…
Những từ Việt Nam nói trên tuy tương đương đồng nghĩa
nhưng nếu xét tinh vi ra MỖI TỪ ĐỀU CÓ NGHĨA RIÊNG, không thể được dùng lẫn lộn
được:
– MANG: đem theo mình, đeo vào mình Vai MANG khăn gói
sang sông, Mẹ kêu mặt mẹ, theo chồng phải theo.
– XÁCH: cầm quai hay cán mà nhấc lên để đem theo Gió
đưa ông Đội về trời Mụ Đội thương tình XÁCH nón chạy theo.
– ẴM: ôm bằng hai tay mà nâng lên.
– BỒNG: ôm trên tay.
– BẾ: vừa ôm vừa ẵm.
– CÕNG: để lên lưng mà đi.
– ĐEO: mắc hay buộc vào thân thể người hay một vật gì.
– ĐÈO: mang thêm.
– KHIÊNG: hai hay nhiều người hợp sức lại để khênh một
vật gì nặng.
– ĐỘI: để lên đầu.
– BƯNG: hai tay cầm mà nâng lên.
– VÁC: để đồ gì nặng lên vai mà đi.
– QUẢY: đeo một vật gì nặng vào một đầu đòn để lên vai
mà đi.
– KHÊNH: hai hay nhiều người nâng một vật gì nặng mà
đưa đi chỗ khác.
Như vậy cùng nghĩa với PORTER của tiếng Pháp hay từ
TRAGEN của tiếng Đức, tiếng Việt Nam kể sơ đã có rất nhiều từ cùng nghĩa nhưng
vì tiếng Việt Nam rất chính xác và gợi hình đầy đủ nên khỏi cần thêm bổ-sung-từ
theo sau như các từ PORTER hay TRAGEN, để có thể nói rõ mang như thế nào.
TIẾNG VIỆT NAM ĐẦY NHẠC TÍNH
Nghe người Việt Nam nói chuyện với nhau, người ngoại
quốc có cảm giác rằng người Việt Nam nói mà như ca hát. Quả thật những lời Việt
nếu được phát âm chính xác, nghe nào khác gì lời ca của một bản nhạc. Thật là
một ngôn ngữ êm ái, dịu dàng, du dương và giàu thơ nhạc. Nhiều nhà ngôn ngữ học
cũng đã từng công nhận như vậy.
Sáu thanh đặc thù của ngôn ngữ này đã tạo được những
tiếng bằng, tiếng trắc, thấp cao, nặng nhẹ, rõ ràng. Sáu thanh cũng cấu tạo
thành ba cặp đối nhau về độ cao xuất phát: bình bày huyền, hỏi và ngã, sắc và
nặng. Tiếng Việt Nam lại có hàng loạt từ được cấu tạo cân đối. Ở những từ ấy
thanh Trong phải đi với thanh TRONG (bình sắc hỏi phải đi với nhau), thanh đục
phải đi với thanh đục (huyền ngã nặng đi với nhau). Âm O đi với âm E (vỏ vẻ,
nhỏ nhẻ), âm Ô đi với âm Ê (bồng bềnh, cồng kềnh), âm U đi với âm I (xù xì,
xúng xính, rục rịch). Thêm vào đó tiếng Việt lại có hàng loạt những từ như lăn
tăn, lả tả, bâng khuâng, bịn rịn, bồn chồn, hồi hộp, xống xang, xao xuyến là
những từ vừa gợi hình vừa gợi nhạc. Hãy thử nghe một câu trong truyện Kim Vân
Kiều của Nguyễn Du:
Vó câu KHẤP KHỂNH, bánh xe GẬP GHỀNH.
Vừa nghe xong câu thơ đó người nghe có thể mường tượng
ngay hình ảnh một chiếc xe ngựa đi trên một con đường xấu lồi lỏm gồ ghề, vó
ngựa bước thấp bước cao làm cho chiếc xe lắc lư, cùng với tiếng móng ngựa lộp
cộp… Những từ ngữ KHẤP KHỂNH và GẬP GHỀNH đã làm cho câu thơ có nhạc. Hoặc nghe
ai đọc:
Đờn kêu tích tịch tình tang,
Ai đem công chúa lên thang mà về. (Thạch Sanh Lý Thông)
thì cũng phải công nhận rằng tiếng nói của người Việt Nam quả thật giàu nhạc
tính. Đã vậy trong khi nói, người Việt Nam lại hay dùng những thành ngữ mà
thành ngữ Việt Nam đều có vần. Như vậy bảo sao có người ngoại quốc đã phải nói
rằng: Câu nói của người Việt Nam nào khác một LỜI CA.
Để chứng tỏ tiếng Việt Nam êm ái và nhiều nhạc tính
như thế nào, thi sĩ Bàng Bá Lân từng giới thiệu bài thơ „ĐÊM MƯA“ của Huy Cận
mà ông cho là có nhiều câu giàu nhạc.
Tai NƯƠNG NƯỚC giọt mái nhà,
Nghe trời NẰNG NẶNG, nghe ta BUỒN BUỒN.
Nghe đi RỜI RẠC trong hồn,
Những chân XA VẮNG, DẶM MÒN LẺ LOI.
Tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ có nhiều thanh điệu, đó là: thanh ngang, thanh
huyền, thanh sắc, thanh nặng, thanh hỏi và thanh ngã. Những thanh này tham gia
vào sự cấu tạo từ cùng ý nghĩa cho các từ đo. Ví dụ:
BA, BÀ, BÁ, BẠ, BẢ, BÃ.
BA = số mục sau số hai.
BÀ = mẹ của cha mẹ mình.
BÁ = bố, truyền rộng ra.
BẠ = không lựa chọn.
BẢ = thuốc độc trộn với đồ ăn để nhử.
BÃ = vật gì hết hương vị chỉ còn xác, ví dụ như bã
chè, bã mía.
Chính sáu thanh điệu này làm cho câu nói có vần có
điệu, do đó làm cho tiếng Việt giàu chất nhạc.
TIẾNG VIỆT NAM LÀ MỘT NGÔN NGỮ TIẾN BỘ
Nhiều nhà ngôn ngữ học danh tiếng thế giới sau khi
nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam đều đồng thanh công nhận đây là một
trong những ngôn ngữ tiến bộ nhất thế giới. Nhà ngôn ngữ học Frey còn cho ấn
hành một sách nhan đề „L’Annamite, mère des langues“ (Trước 1945, người Tây
phương đặc biệt người Pháp, gọi nước Nam ta là Annam và dân ta là Annamite.
Tiếng nói của dân ta cũng là l’Annamite) để tán tụng khả năng của ngôn ngữ này.
Ngôn ngữ Việt Nam thật tình tuyệt vời vì có những nét
đặc biệt hiện đại phong phú, duyên dáng, du dương… Tiếng Việt Nam hiện đại nhờ
lối viết la-tinh, nhờ cấu trúc đơn âm, nói sao viết vậy, ngữ pháp lại giản dị
với cú pháp tự nhiên, thêm cách phát âm Việt Nam chủ yếu lại như cách đọc La
ngữ.
Ngoài đặc tính tiêu biểu là một tiếng nói đầy nhạc
tính, tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ rất phong phú với rất nhiều âm (trên 700
âm) và nhiều thanh (6 thanh). Người Việt Nam có thể uốn lưỡi nói được trên 700
âm khác nhau trong khi như tiếng Quan Thoại chỉ có chừng 1.000 âm, tiếng Pháp,
tiếng Anh khoảng 500 âm, tiếng Nhật cũng chỉ có 140 âm. Vì ngôn ngữ ít âm nên
để tránh nạn „đồng âm dị nghĩa“, người các nước này phải chắp nhiều âm mới
thành một chữ. Ví dụ người Việt Nam nói „TÔI“ (1 âm) thì người Nhật nói
„WA-TA-KU-SHI (4 âm), khi người Việt Nam nói „ĂN“ thì người Pháp nói „MANGER“
(2 âm), hoặc người Đức nói „ESSEN“ (2 âm). Với tính chất đơn âm mỗi từ tự nó đã
có ý nghĩa, vần của mỗi từ, phát âm độc lập không nhờ cậy vào vần khác để hợp
thành. Ví dụ „ĐẸP“ (1 âm), còn trong tiếng Anh „BEAUTIFUL (3 âm), nếu tách ra
từng âm thì vô nghĩa, phải nghe trọn 3 âm thì mới hiểu được.
Tiếng Việt Nam nói sao viết vậy, không như tiếng nói
các nước khác. Như trong tiếng Anh, chữ „I“ khi thì đọc là „I“ khi thì đọc là
„AI“. Ví dụ irascible (đọc I), irate (đọc AI) hoặc nguyên âm „A“. Ví dụ trong
các từ canal, fade, faddy cũng được phát âm nhiều cách.
Văn phạm Việt Nam lại rất đơn giản nhưng đầy đủ và hợp
lẽ. Đặc biệt cách xếp đặt các từ trong câu theo thứ tự hợp lý như tiếng Phát
tiếng Anh (chủ từ, động từ, túc từ), chớ không lộn xộn như tiếng Nga, tiếng Hy
Lạp, tiếng Nhật, tiếng Cao Ly hay là những sinh ngữ chưa tiến bộ phải dùng thêm
hậu trí từ để chỉ chữ nào là chủ từ hay túc từ hoặc thuộc từ.
Có những ngôn ngữ như Pháp, Đức lại có văn phạm rắc
rối tới mức không cần thiết và một cách phi lý. Tại sao những vật vô tri vô
giác lại phải thuộc giống đực hay giống cái. Tại sao cái ghế đẩu (le tabouret)
là đực, mà cái bàn (la table) lại là cái. Người lính gác là đàn ông rõ ràng mà
lại gọi là „la sentinelle“. Trong Đức ngữ, trái bí rợ (der Kurbis) thuộc giống
đực nhưng trái chuối (die Banane) lại là cái. Tiếng Đức, tiếng Ý ngoài giống đực,
giống cái còn có cả „trung hòa“. Cô gái trẻ được gọi là das Mädchen.
Ngôn ngữ nhiều nước Tây phương được rập khuôn với
những mẹo luật phiền phức về cách chia động từ, cách sử dụng các thì và trạng
thái. Ví dụ như khi tiếng Việt, nếu dùng động từ LÀ với các chủ từ TÔI, NÓ,
CHÚNG TA, CÁC ANH, CHÚNG NÓ động từ LÀ vẫn không thay đổi; thì theo Pháp ngữ
với động từ ÊTRE phải là JE suis, TU es, IL est, NOUS sommes, VOUS êtes, ILS
sont; trong tiếng Đức thì phải: ICH bin, Du bist, WIR sind hay trong Anh ngữ
thì I am, YOU are, HE is.
Trong các ngôn ngữ này, tùy theo chức năng trong câu,
mỗi từ biến đổi theo mỗi cách hay trạng. Một động từ ở chỉ định cách từ không
biến cách mà chỉ cần thêm một số phụ từ liên hệ. Ví dụ: Tôi đi bây giờ. Tôi vẫn
đi. Tôi đang đi. Tôi sẽ đi.
Tiếng Việt Nam lại là một tiếng nói rất phong phú.
Trong tiếng nói hàng ngày có những danh từ tả rõ những liên hệ phức tạp hoặc
cách thức làm một công việc gì. Đây là những danh từ tuy tương đương đồng nghĩa
nhưng nếu xét tinh vi ra mỗi từ đều có nghĩa riêng không thể dùng lẫn lộn được.
Trước đây tiếng Việt Nam có thiếu nhiều danh từ khoa
học kỹ thuật vì trong nước thời đó không có một hoạt động khoa học nào. Nhưng
một khi khoa học kỹ nghệ trong nước phát triển thì sự thiếu sót đó sẽ không còn
nữa. Bằng cớ là chỉ trong mười năm gần đây trong ngôn ngữ Việt Nam đã có thêm
hàng vạn danh từ khoa học kỹ thuật.
Tiếng Việt Nam lại có đủ từ để chỉ từng vật, từng
việc, có thể được dùng để điễn tả bất kỳ tư tưởng cao siêu nào, bất cứ tình cảm
tế nhị nào hoặc trình bày bất cứ kiến thức khoa học phức tạp và hiện đại nào.
Nhiều từ tiếng Việt rất khai quát, có thể có nhiều ý nghĩa. Ngoài hàng chục vạn
từ sẵn có, tiếng Việt Nam còn có hàng ngàn thành ngữ, tục ngữ do đó làm sao có
thể không công nhận sự phong phú của tiếng nói này được?
Ngôn ngữ Việt Nam lại có những đặc tính đặc thù: Vị
trí của các từ trong câu rất quan trọng do đó sự thay đổi vị trí có thể làm
thay đổi ý nghĩa của từ.
Con chó khác chó con. Trong nhà khác nhà trong. Vị trí
của từ trong câu thay đổi thì ý nghĩa cũng thay đổi:
Em yêu anh. Anh yêu em. Yêu anh em. Anh em yêu. Em anh
yêu. đều có ý nghĩa khác nhau.
Tiếng Việt lại có lối NÓI LÁI độc đáo, một đặc biệt mà
ngôn ngữ các nước khác không thể có được nên có nhiều trường hợp không thể dịch
ra ngoại ngữ được hoặc nếu có dịch cũng chỉ là phỏng dịch không sát nghĩa, khó
lột được tinh thần nguyên văn.
Khen ai ĐẺO ĐÁ tạc nên mày,
KHÉO ĐỨNG chi mà đứng mãi đây?
Trên cổ ĐẾM ĐEO dăm chuỗi hạt,
Dưới chân ĐỨNG CHÉO một đôi giày... (Cống Quỳnh)
LỐI NÓI LỜI NGƯỢC VỚI Ý: Nhỏ phải hiểu To, Khen có nghĩa là Chê. Khéo có nghĩa
là Vụng. „Bé cái lầm“ có nghĩa là „lầm to“. „Rõ Khéo“ chưa ? Có nghĩa là „lầm
lỗi vụng về“.
KHEN ai khéo đúc chuông chì,
Dạng thì có dạng, đánh thì không kêu.
Những tiếng KHEN, KHÉO ở đây đã được dùng để trách móc mỉa mai không còn nghĩa
đen thuần túy nữa.
TIẾNG VIỆT NAM RẤT UYỂN CHUYỂN NGỌT NGÀO
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Thi sĩ Bàng Bá Lân từng chứng minh rằng do bản tính hiền hòa người Việt Nam
luôn luôn chú trọng đến việc xử thế, cố tránh va chạm tình cảm, do đó trong
ngôn ngữ đầy đặc tính uyển chuyển ngọt ngào và ông từng đưa ra những ví dụ lời
tỏ tình dịu dàng thiết tha của Kim Trọng: Tiện đây xin một hai điều, Đài gương
soi đến dấu bèo cho chăng? Để chứng minh tiếng Việt Nam rất uyển chuyển ngọt
ngào không gì bằng lưu ý đến cao dao tục ngữ. Vì ở đây, tình ý luôn luôn thiết
tha và lời luôn luôn uyển chuyển. Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói
cho vừa lòng nhau. Lời nói đôi khi có thể mộc mạc nhưng không kém phần mềm mỏng
ngọt ngào của một tâm hồn chất phác chân thành.
Chim lạc bầy xa cây nhớ cội
Người xa người tội lắm, người ơi!
Trong lời nói sự sử dụng điệp ngữ khiến lời nói thêm uyển chuyển:
Bình xa chén, chén lại xa bình,
Đó xa đây, đây xa đó, mối chung tình xa nhau.
BẢO TOÀN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT NAM
Nếu từ 1960 trở về trước tiếng Việt được phát triển
tốt đẹp và sau thời này tiếng mẹ đẻ và chữ quốc ngữ tuy phát triển ngày càng
mạnh hơn nhưng có lẽ chỉ về lượng chớ về phần phẩm thì không khá mấy. Có thể do
tình trạng chiến tranh, con người đổ ra nói và viết nhiều mà không cần nói đúng
và viết đúng chăng ? Nếu có những người cố gắng làm cho tiếng mẹ đẻ càng ngày
càng giàu và hay hơn thì cũng có lắm kẻ làm cho tiếng này càng ngày càng mất
lần sự trong sáng của nó bằng:
1) TẬT HAY DÙNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI.
Không có ngôn ngữ nào giàu đến mức không cần mượn thêm
tiếng nước ngoài cho đến ngày nay việc đôi khi cần phải mượn một số từ của ngôn
ngữ nước khác cũng là một chuyện bình thường. Trong tiếng Việt Nam cũng có một
số lượng khá lớn từ của ngôn ngữ nước khác. Từ vay mượn nhiều nhất là của tiếng
Hán như ngữ pháp, chính trị, lý luận… thứ đến của tiếng Pháp như gare, autobus,
savon, café… (nhà ga, xe buýt, xà phòng, cà-phê…). Sở dĩ phải mượn là vì trong
tiếng nước mình không có. Ví dụ như một số từ về khoa học chẳng hạn. Trái lại
những từ mình đã có thì tại sao mình không dùng từ của mình? „Tôi không ăn“ thì
cứ nói „tôi không ăn“ chớ nói „tôi không manger“ nghe đã kỳ mà càng làm cho câu
tiếng Việt càng khó hiểu. Ngày xưa có những người mở miệng ra là xổ toàn tiếng
Hán, thời Pháp thuộc cũng có những người về những nơi thôn dã hay những nơi
„khỉ ho gà gáy“, mỗi khi nói thì xổ cả tràng tiếng Tây. Ngày nay cũng có những
„Việt kiều“ về thăm quê hương nói chuyện với ai cũng thốt những tràng tiếng Mỹ
để tỏ vẻ khoe khoang. Người trong nước nghe nhưng không hiểu gì hết đành chỉ
nói „Cậu ấy nói tiếng Mỹ như gió“. „Việt kiều nghe lại ngạo nghễ tưởng người
trong nước khen mình, chớ đâu có hiểu đó là lối „chửi khéo“: „Ôi thật là đồ
vong bản!“; chớ nếu thật quả muốn khen, họ đã nói như thế này: „Chà! cậu ấy xa
quê hương ròng rã đã mười lăm, mười sáu năm rồi mà còn nói được đúng tiếng
Việt… v.v…“.
Sau 1945, tật hay dùng tiếng nước ngoài đã được người
Việt hay mắc rất nhiều. Ví dụ như trước 1945 chữ AVION của tiếng Pháp được dịch
sang tiếng Việt là MÁY BAY, PORTE AVION là tàu sân bay thì đến thời sau 1960 có
chiến tranh với cộng sản thì tại miền Nam Việt Nam lại dùng những từ gốc Hán
như PHI CƠ hoặc HÀNG KHÔNG MẪU HẠM.
Hoặc trước 1945, người Việt thường quen tai với những
từ như LÍNH THỦY, LÍNH BỘ thì sau đệ nhị thế chiến thường chỉ thấy nói THỦY
QUÂN, LỤC QUÂN. Thậm chí có một số người trẻ tuổi cho rằng nói MÁY BAY, LÍNH
THỦY, LÍNH BỘ là những từ của cộng sản, người quốc gia không nên dùng. Cho nên
đã có câu chuyện buồn cười là một em bé Việt ở Pháp học tiếng Pháp đem từ
HELICOPTÈRE hỏi nghĩa với cha nó thì cha nó nói là PHI CƠ TRỰC THĂNG. Em bé bực
mình vì không hiểu phi cơ trực thăng là gì bèn chạy sang hỏi ông nội của bé thì
được ông giải thích cho rằng đó là danh xưng gốc Hán và ông giải thích PHI là
BAY, CƠ là MÁY, TRỰC là THẲNG, THĂNG là LÊN nghĩa là MÁY BAY LÊN THẲNG. Ông
dùng tiếng mẹ đẻ để giải thích như vậy thì cháu ông là người Việt tất dễ hiểu
ngay chớ cha bé dùng danh xưng gốc Hán thì làm sao bé hiểu được. Làm như thế
khác gì dịch cho một người Việt một từ tiếng Pháp bằng một từ tiếng Anh trong
khi người Việt đó Anh hay Pháp ngữ đều mù tịt. Với tiếng Hán cũng thế thôi, Hán
ngữ cũng là một ngoại ngữ. Có nhập một từ Hán vào ngôn ngữ Việt Nam thì cũng
tốt thôi. Tiếng Việt sẽ thêm phong phú hơn. Nhưng không vì đó mà lại chê bai
hay phủ nhận những từ tiếng mẹ đẻ tương đương sẵn có.
Trái lại không nên dùng những từ gốc Hán mà Việt Nam
cộng sản hay bất cứ ai đã sử dụng để tự CHẾ BIẾN thành những từ kỳ quái khó
hiểu như khẩn trương, tuyên giáo, tung thâm, quán triệt v.v… mà sự sử dụng sẽ
làm mất sự trong sáng của ngôn ngữ mình.
Trên một tạp chí xuất bản ở Paris năm 2009, ông Lâm Dĩ
Mộc kêu gọi nên bảo tồn tiếng Việt Nam, đừng để bị tiêu diệt, nhưng trong suốt
bài báo, tác giả lại chỉ trích những ai dùng những từ như: LÍNH BỘ, LÍNH THỦY
ĐÁNH BỘ, CHỮ THẬP ĐỎ, LẦU NĂM GỐC, TÒA NHÀ TRẮNG, SAO HỎA… viện cớ đó là ngôn
ngữ „miền núi“ của Việt Nam cộng sản và chỉ được dùng những từ như: LỤC QUÂN,
THỦY QUÂN LỤC CHIẾN, TÒA BẠCH ỐC, HỎA TINH. Lời chỉ trích lại quá nhiều mâu
thuẫn và quá khắt khe, chớ trước năm 1945, người Việt Nam thời này thường dịch
những từ ngoại quốc đó sang tiếng mẹ đẻ như vậy. Không tin, cứ đến các thư viện
tìm đọc những sách báo ấn hành trước năm 1945 thì rõ. Vã lại, WHITE HOUSE người
Pháp dịch là Maison Blanche thì người Việt có gọi là „Tòa Nhà Trắng“; hoặc
PENTAGONE là „lầu năm góc“; hoặc CROIX ROUGE là „Chữ Thập Đỏ“ cũng đúng thôi.
Đâu còn có thể tìm được những từ tiếng mẹ đẻ khác chính xác hơn để phiên dịch
những từ ngoại quốc đó.
Những từ như TÒA BẠCH ỐC, NGŨ GIÁC ĐÀI, HỒNG THẬP TỰ
là những từ gốc Hán, được Việt hóa để làm ngôn ngữ Việt Nam thêm phong phú
thêm, ai hiểu được nghĩa thì cứ dùng. Tiếng Việt Nam là tiếng nói chung của
toàn dân tộc. Mọi người Việt Nam đều có quyền sử dụng. Không lẽ người cộng sản
Việt Nam dùng từ nào tiếng mẹ đẻ là chúng ta không được dùng từ đó và phải dùng
từ nước ngoài để thay thế hay sao? Trái lại chúng ta chỉ không nên dùng những
từ quái đảng mà chúng đã tự biến chế như: khẩn trương, tuyên giáo, tung thâm,
quán triệt v.v… mà chúng đang sử dụng.
Ngoài ra ông Lâm Dĩ Mộc còn viết rằng: „Ai nói hay
viết đảo ngược Á CHÂU thành Châu Á, Y KHOA thành Khoa Y, HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
thành Công chúa Huyền Trân, TRÚC LÂM THIỀN VIỆN thành Thiền Viện Trúc Lâm… PHI
CHÂU thành Châu Phi đều là „SAI PHÁP CÚ, không ý nghĩa, kém cỏi biểu lộ bản
chất thất học“.
Nếu ông Lâm Dĩ Mộc là người Việt thì tác giả nên nhớ
rằng ngữ pháp Việt Nam hoàn toàn khác biệt hẳn với ngữ pháp Hán và tiếng Việt
Nam hiện đại không phải là tiếng nôm như tác giả lầm tưởng. Những từ gốc Hán
được mượn dùng trong ngôn ngữ Việt Nam đều được Việt hóa và phải tuân theo ngữ
pháp Việt Nam. Những từ CHÂU, KHOA, CÔNG CHÚA, THIỀN VIỆN v.v… là những danh từ
chung trong ngôn ngữ Việt Nam đều phải luôn luôn ĐỨNG TRƯỚC những từ mà chúng
chỉ định. Cũng như người Trung Hoa có gọi Sàigòn là „Sàigòn thành“ thì người
Việt Nam cũng chỉ gọi là „thành Sàigòn“. Cũng như những từ Anh Mỹ, khi được
mượn dùng trong ngôn ngữ Pháp hay Đức đều phải theo ngữ pháp Pháp hay Đức.
II) HAM DÙNG NHỮNG TỪ HÁN ĐỂ DỊCH HAY PHIÊN ÂM
Trước 1945, những danh xưng ngoại quốc như
Montesquieu, Voltaire hoặc những địa danh như Paris, Roma trên sách báo Việt
ngữ đều được ấn hành như nguyên gốc. Đôi khi để giúp những người không biết
tiếng ngoại quốc dễ đọc hơn thì có âm thêm phía sau trong vòng ngoặc. Ví dụ:
Montesquieu (Mông-tết-ki-ơ) hay Voltaire (Vôn-te), thì sau 1945, thấy trên sách
báo, các danh xưng về người hay các địa danh đều được phiên âm theo Hán ngữ:
Montesquieu trở thành Mạnh Đức Tư Cưu, Voltaire trở thành Lư Thoa, Paris trở
thành Ba Lê, Roma trở thành La Mã… nên lắm người đọc không hiểu đó là danh xưng
của ai hay địa danh nơi nào. Sở dĩ có những sự kiện như vậy là do có một số
người khi gặp những từ ngoại quốc mà họ không biết dịch hay phiên âm như thế
nào bèn chạy vào Chợ Lớn nhờ các „chú Ba“ bày cho. Người Trung Hoa thường đổi
tên các địa danh ngoại quốc theo lối phiên âm theo Hán ngữ. Nhưng vì trong ngôn
ngữ Trung Hoa không có âm R nên mỗi âm R của danh xưng ngoại quốc đều được thay
thế bởi âm L. Do đó Paris trở thành Ba Lê, Roma trở thành La Mã. Lề lối phiên
âm như thế lắm khi gây nhiều ngộ nhận. Như trường hợp một người Việt Nam ở
Sàigòn gởi thơ cho thân nhân ở Pháp theo địa chỉ Ba Lê thì tháng sau đó thơ trả
lại người gởi với phê chuẩn „vô danh“ và kèm theo dấu bưu điện thành Bâle nước
Thụy Sĩ.
Trên một tạp chí ở hải ngoại có bài tường thuật về
giải vô địch túc cầu thế giới ở Đức. Nhiều nước tham dự đã được gán cho những
danh xưng lạ lùng khó hiểu nào là: Nãi Gia Lợi, Ba Nhã Quế, Khốt Đột, Kha Luân
Quốc, Gia Mai Kha, Khả Mại Dung, làm người đọc tuy am hiểu nhiều về địa lý cũng
không hiểu đó là những nước nào và ở đâu? Sau cùng nhờ xem lại kết quả trên các
báo Âu Mỹ lúc đó mới có thể biết: Nãi Gia Lợi là NIGERIA, Ba Nhã Quế là
PARAGUAY, Khốt Đột là CROATIA, Khã Mại Dung là CAMEROUN…
Nhiều người tự hỏi không hiểu tại sao tác giả bài
tường thuật không dùng danh xưng đặc thù của các nước đó mà lại dùng những từ
Hán vô nghĩa… Có ai thử giải thích các danh xưng Nãi Gia Lợi, Ba Nhã Quế, Khã
Mại Dung có nghĩa là gì ?
Còn nếu muốn phiên âm lại cho dễ đọc thì tại sao không
dùng chữ quốc ngữ để âm vì hơn cả tiếng Hán, chữ Hán, tiếng và chữ Việt Nam có
đủ âm để phiên âm bất cứ ngôn ngữ nào trên địa cầu.
Hay hơn hết là giữ nguyên lối viết và lối đọc của danh
xưng nước người. Để cho những người không biết ngoại ngữ dễ đọc thì âm viết sau
danh xưng chính, kế thêm trong vòng ngoặc. Ví dụ TUNISIE (Tuy-ni-di), MAROC
(Ma-rốc), CAMEROUN (Ca-morun) chớ dùng những từ Hán như Ba Nhã Quế, Khốt Đột,
Khã Mại Dung đã vô nghĩa mà còn chướng tai khó hiểu.
III) HAY NÓI XEN THÊM CHỮ HÁN MÀ KHÔNG HIỂU ĐÚNG NGHĨA
CHỮ ĐÓ
Có đôi người thường có thói xen vào câu nói bằng tiếng
mẹ đẻ của họ những từ ngoại quốc, nhất là những từ gốc Hán mà họ không hiểu rõ
nghĩa của từ đó. Ví dụ như muốn nói về CHỖ YẾU thì họ lại dùng từ YẾU ĐIỂM mà
thật sự theo Hán ngữ, YẾU ĐIỂM có nghĩa là ĐIỂM QUAN TRỌNG mà đúng ra từ NHƯỢC
ĐIỂM mới có nghĩa là CHỖ YẾU.
Nhiều âm của Hán ngữ đôi khi lại trùng âm với âm Việt
ngữ nhưng lại có nghĩa khác nhau. Ví dụ từ Hán YẾU có nghĩa là CỐT, QUAN TRỌNG,
CHÍNH nên Yếu điểm có nghĩa là điểm quan trọng. Yếu nhân là người trọng yếu. Từ
YẾU của Việt ngữ là có nghĩa là yếu ớt, kém, vì vậy khi người Việt Nam nói
người yếu có nghĩa là người đó kém sức khỏe. Vậy khi người Việt Nam nói ĐIỂM
YẾU (chữ yếu đứng sau chữ điểm) thì ĐIỂM YẾU này có nghĩa là điểm kém, chỗ yếu.
Như thế đủ thấy YẾU ĐIỂM và ĐIỂM YẾU có nghĩa hoàn toàn ngược và khác nhau.
Cũng nên lưu ý rằng có nhiều từ Hán, khi được mượn vào
ngôn ngữ Việt Nam thì lại đổi nghĩa khác hẳn với nghĩa vốn có trong tiếng Hán.
Ví dụ như KHÚC CHIẾT trong tiếng Hán có nghĩa là quanh co thì sang tiếng Việt
Nam lại có nghĩa là gãy gọn.
Cũng có từ Hán-Việt được tưởng rằng có ý nghĩa giống
nhau nhưng thật ra vẫn có nhiều khác biệt. Ví dụ như từ PHÁT HIỆN và từ KHÁM
PHÁ. Sự thật thì PHÁT HIỆN có nghĩa là tìm thấy cái gì trước đây chưa biết hoặc
chưa tìm thấy; còn KHÁM PHÁ có nghĩa là tìm ra được cái gì được ẩn giấu trong
bí ẩn và việc đó bao hàm ý phải có công tìm tòi.
Vì vậy muốn sử dụng đúng từ Hán-Việt nên hiểu rõ đúng
nghĩa và cách dùng từng từ, nhất là phải biết phân biệt các từ Hán-Việt trùng
âm với các từ thuần Việt ngữ.
IV) NÓI VÀ VIẾT ĐÚNG THEO NGỮ PHÁP
Trong cuộc nói chuyện hay trên các văn thư, việc nói
và viết sai ngữ pháp cũng thường có thể xảy ra cho bất cứ ai. Nhưng có người
cho rằng cần gì phải giữ gìn ngữ pháp trong lời nói, cốt hiểu nhau là đủ rồi.
Nhưng một lời nói sai ngữ pháp tất nhiên sẽ mất đi sự trong sáng và sẽ trở
thành khó hiểu hoặc có thể tạo ra nhiều ngộ nhận. Ngữ pháp tiếng Việt Nam đòi
hỏi một người muốn nói đúng tiếng Việt, ngoài việc hiểu rõ ý nghĩa đúng của từ,
cần phải biết rõ công dụng của các loại từ và vị trí đúng của từ trong câu nói.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT NAM
Những kết quả mới nhất của ngành khảo cổ cũng như kết
quả về những nghiên cứu khoa học đã cho thấy Việt Nam có thể là một trong những
khu vực của địa cầu mà loài người xuất hiện sớm nhất. Nước Việt Nam không phải
chỉ có bốn ngàn năm văn hiến mà còn nhiều hơn thế nữa. Vì vậy tiếng nói của
người Việt Nam cũng lâu đời như dòng giống Việt Nam và đã hiện hữu ngay thời
thủy tổ người Việt Nam thành hình.
Ngành dân tộc học cho biết dân tộc Việt Nam nguyên là
hợp chủng của nhiều bộ tộc dân cùng chung sống trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam
từ những thời xa xưa của lịch sử. Sử liệu cũng như truyền thuyết lưu lại đều
cho biết dân tộc Việt Nam thuộc dòng giống TIÊN RỒNG. Tiên có nghĩa là người ở
trên núi, RỒNG là tượng trưng cho dân ở nước. Các ngành khoa học mới đều xác
nhận rằng dân tộc Việt Nam xưa được thành hình do sự kết hợp của các bộ tộc từ
núi rừng thảo nguyên tiến xuống đồng bằng với các bộ tộc vùng ven biển và hải
đảo tiến lên. Tiếng nói của dân tộc đã được hình thành theo nhịp phát triển của
dân tộc. Tiếng Việt Nam đã có một nguồn gốc rất lâu đời và sự tiến hóa của
tiếng nói này cũng đã phải tùy thuộc theo số phận nổi chìm của dân tộc.
Trong suốt gần ngàn năm bị Tàu đô hộ, các di tích lịch
sử bị hủy diệt, chữ viết cũng như tiếng nói bị cấm đoán. Tổ tiên người Việt chỉ
được phép dùng chữ Hán để viết và tiếng Hán để nói. Tuy vậy vì nhờ Tổ tiên
người Việt đã cư trú lâu đời trên lãnh thổ Bắc Việt nên có được thời gian dài
đủ để hình thành ngữ hệ một cách ổn định để sau đó dầu bị ngoại bang phương Bắc
thống trị vẫn giữ được bản sắc tiếng nói của dân tộc. Suốt thời gian bị đô hộ
chữ viết của dân tộc bị cấm đoán. Chữ Hán được các Thái thú Tàu áp đặt thay thế
chữ Việt. Học hành, thi cử, luật lệ, dụ sắc, giấy tờ chốn công đường đều dùng
chữ Hán. Đó là nguyên do của sự ra đời của văn chương truyền khẩu của dân tộc
Việt Nam. Văn chương truyền khẩu bao gồm những tục ngữ, thành ngữ, ca dao đã có
công nhiều trong sự bảo tồn tiếng nói của dân tộc Việt Nam suốt thời kỳ này.
Từ thế kỷ XIII, trong khi ngay tại Âu Châu văn chương
chưa được triển khai bao nhiêu thì tại Việt Nam đã có những bài thơ chải chuốt
niêm luật chỉnh tề. Tiêu biểu là chuyện thơ Vương Tường bao gồm 39 bài tứ tuyệt
và 10 bài bát cú. Sự kiện đó chứng tỏ rằng tiếng mẹ đẻ của dân tộc vẫn phát
triển thạnh đạt.
Tuy nhiên suốt thời kỳ Bắc thuộc, Hán Nho đã được phổ
biến ở đất Việt để khống chế nhân dân Việt Nam, đã tạo ra ở đây một số khoa
bảng NAM NHÂN BẮC HƯỚNG. Cho nên đến thời kỳ nước nhà được tự chủ một số lớn
khoa bảng đã trở thành quan lại của triều đình. Tuy có thể họ đã có ý thức rõ
rệt về độc lập và chủ quyền lãnh thổ, nhưng vẫn còn rất mơ hồ về ý thức độc lập
văn hóa. Do đó chữ Hán vẫn được họ áp dụng làm văn tự quốc gia trong khi chữ
NÔM được xem là: nôm na mách qué.
Suốt thế kỷ XIV và XV mặc dầu mọi khó khăn, tiếng Việt
vẫn phát triển không ngừng. Người Việt đã khéo lợi dụng các thể thơ lục bát để
diễn tả hay phát biểu cảm xúc hay tư tưởng của mình.
Đi đôi với tinh thần độc lập của dân tộc từ thế kỷ XV,
tiếng Việt đã là một lợi khí văn hóa hoàn bị, nên mặc dầu có sự bành trướng
mạnh mẽ của văn chương Trung Hoa, tiếng Việt vẫn dũng mãnh sát cánh với dân
tộc. Tiếng mẹ đẻ đã đủ khả năng diễn tả mọi tâm tư của con người. Có lẽ người
Việt thuộc một dân tộc có máu thi sĩ trong huyết quản nên lối diễn tả vào thời
kỳ này thường dùng lối văn vần. Với các thể thức gắt gao chặt chẽ của thi thơ
nôm do Hàn Thuyên mở lối, nhiều tác phẩm văn vần bằng tiếng mẹ đẻ đầy giá trị
ra đời. Tiêu biểu là tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Bà Đoàn Thị Điểm. Như thế loại
văn vần, lục bát, dầu có niêm luật khác hẳn lối thơ Trung Hoa, vẫn đầy đủ khả
năng để phô diễn tất cả mọi tâm trạng đầy tế nhị hay khúc chiết của người Việt
Nam.
Như thế từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII tiếng Việt Nam
càng ngày càng phát triển mạnh mẽ trong quảng đại quần chúng Việt Nam trong lúc
giới quan lại của triều đình cùng giới khoa bảng vẫn xem tiếng Hán, chữ Hán như
là ngôn ngữ và văn tự quốc gia. Tuy vậy suốt gần 500 năm, văn thể thơ Đường chỉ
có một vài tác phẩm, văn thể thơ nôm tràn ngập trong quần chúng Việt Nam. Ai ai
cũng biết hay cũng thuộc Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Kim Vân Kiều, Nhị
Thập Tứ Hiếu, Minh Đình Mộng Ký, Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều Vấn
Đáp, Bần Nữ Thán, Hạnh Phúc Ca, Quan Âm Thị Kính, Phan Trần, Trê Cóc, Nhị Độ
Mai, Lục Súc Tranh Công…
Mãi đến đời Tây Sơn, tiếng Việt mới được xem là ngôn
ngữ chính thức và chữ NÔM được xem là văn tự quốc gia. Khi viết chiếu cầu hiền
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp, Nguyễn Huệ không dùng chữ Hán mà lại viết bằng chư
Nôm. Có thể nói dưới triều đại Nguyễn Huệ, mọi chiếu chỉ, văn thư của triều
đình đều dùng chữ Nôm. Nhà cầm quyền thời đó còn lợi dụng thi ca bằng chữ Nôm
làm lợi khí giáo dục. Tiêu biểu là tác phẩm Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca.
Tiếc thay về sau triều đình nhà Nguyễn lại quay trở
lại sử dụng chữ Hán như là văn tự quốc gia. Nhưng chữ Nôm và tiếng mẹ đẻ vẫn
được dân chúng bảo vệ. Sự thành hình của chữ quốc ngữ đã giúp nhiều vào công
việc cải thiện tiếng nói mẹ đẻ rất nhiều.
Từ năm 1945, tiếng mẹ đẻ được xem như là ngôn ngữ
chính thức của dân tộc Việt Nam và chữ quốc ngữ được nâng lên hàng văn tự quốc
gia. Tại các trường học, tiếng Việt đã được sử dụng nên đa số người Việt đã nói
đúng tiếng Việt và viết đúng chính tả.
Phan Hưng Nhơn
Đăng trên fb Ly Le.