1. Trong Đào tạo giảng viên
(TOT = Training Of Trainers), phương pháp “đào tạo người lớn tuổi (adult
training)” có thể được xem là một phương pháp tiên tiến, mới được hình
thành cách đây khoảng 60 năm ở các nước phát triển.
Phương pháp tiếp cận này có
cùng bản chất là “tham gia” với Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có
sự tham gia của người dân (Participatory Rapid Appraisal = PRA) hoặc
Phương pháp tiếp cận từ dưới lên (Bottom-up).
Phương pháp này dần dần trở
thành một khoa học độc lập, mặc dù đã được phổ biến trên khắp thế giới
thông qua các dự án phát triển, nhưng đại đa số các giáo viên lại chưa
được tiếp cận với phương pháp này vì các khóa học này rất ít được tổ
chức, vì chưa được tham gia các dự án ODA/dự án phát triển hay là có học
rồi nhưng chưa hiểu hết hoặc chưa vận dụng được.
Phương pháp này có tiếp cận
giống nhau cơ bản với Phương pháp sư phạm là lấy học viên làm trung tâm
nhưng có những khác nhau đặc trưng (xem dưới). Phương pháp đào tạo người
lớn tuổi là một phương pháp tiếp cận chủ yếu trong TOT, trong đó các
khái niệm dưới đây được đặc biệt coi trọng (xem chi tiết ở các phần
sau):
· Khái niệm trung dung/Sự hỗ trợ,
· Sự tham gia,
· Tự khám phá,
· Sử dụng công cụ trực quan
· Lấy thực hành làm cơ sở, ...
2. Phương pháp đào tạo truyền
thống hoặc phương pháp sư phạm đang áp dụng xưa nay trong các nhà
trường, chủ yếu là dành cho sinh viên và học sinh. Mặc dù phương pháp
này vẫn lấy học viên làm trung tâm nhưng “thầy” giáo thường đóng vai trò
truyền đạt kiến thức và học sinh tiếp thu một cách thụ động.
Phương pháp đào tạo của các dự
án ODA (quốc tế), phổ biến là trong TOT, về bản chất không khác phương
pháp đào tạo truyền thống. Tuy nhiên trong phương pháp này, “đào tạo
viên” rất chú trọng sự tham gia, sự tự khám phá/sáng tạo, thảo luận
nhóm, …, để tạo sự chủ động của học viên thông qua nhiều công cụ trực
quan sinh động khác nhau để có chất lượng đào tạo cao hơn.
Phương pháp đào tạo truyền
thống không mâu thuẫn với phương pháp đào tạo trong các dự án ODA. Cần
phải kế thừa và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu từ phương pháp đào
tạo truyền thống này.
Nói chung, kiến thức, kỹ năng
và thái độ là “hành trang” cơ bản của một đào tạo viên (xem giải thích
trong phần “trung dung” bên dưới). Sự khác nhau đặc trưng giữa phương
pháp đào tạo người lớn tuổi trong TOT và các phương pháp đào tạo khác
chỉ có liên quan đến một số khái niệm, phương pháp/kỹ thuật đào tạo và
các kỹ năng sử dụng công cụ trực quan (visual tools) và sự khác nhau này
chỉ có tính chất tương đối.
3. Bất cứ một phương pháp tiếp
cận đào tạo nào hay kỹ thuật/kỹ năng đào tạo nào cũng nhắm tới việc
khuyến khích học viên động não để học viên có thể thể hiện tối đa tiềm
năng hiện có của mình.
Phương pháp tiếp cận trong đào tạo thường
nói các cách tiếp cận tổng quát và có chất vĩ mô. Ví dụ: đào tạo lấy
học viên làm trung tâm, đào tạo có sự tham gia, đào tạo người lớn tuổi,
... Nói chung, các phương pháp tiếp cận trong đào tạo đều có các phương
pháp/kỹ thuật đào tạo và các kỹ năng đào tạo.
Phương pháp đào tạo khác với
phương pháp tiếp cận đào tạo. Người ta thường hiểu phương pháp đào tạo
(training methods) là kỹ thuật đào tạo (training techniques). Một kỹ
thuật đào tạo thể hiện cách thực hành có tính chất chung, được phổ biến
và được chấp nhận (có thể biên soạn thành một “mô đun” trong đào tạo) Ví
dụ: kỹ thuật hỏi và đáp, kỹ thuật thảo luận toàn hội trường, kỹ thuật
thảo luận nhóm, kỹ thuật trình giảng, ...
Trong khi đó kỹ năng đào tạo lại thể hiện những cách vận dụng/thực
hành chuyên môn hoặc sử dụng các công cụ đào tạo ở quy mô nhỏ hơn và
chi tiết hơn trong một thời điểm nhất định nào đó. Ví dụ: kỹ năng dùng
phiếu chuẩn bị, kỹ năng dùng bảng trắng, kỹ năng dùng giấy A0,… Ở quy mô
nhỏ hơn nũa, người ta thường dùng chữ kỹ xảo, tiểu xảo để chỉ những kỹ
năng tế nhị hơn.
4. Có nhiều tiêu chí để đánh giá khóa học, tuy nhiên trong các dự án ODA, sự tham gia là tiêu chí quan trọng nhất.
Sự tham gia có thể được
xem như là nền tảng triết học của đào tạo, với bất cứ phương pháp
luận/kỹ thuật đào tạo nào. Sự tham gia được đánh giá cao nhất trong việc
đánh giá thành công của một khóa học. Có nghĩa là một khóa học thiếu sự
tham gia không thể được xem như là thành công.
Phương pháp đào tạo truyền
thống thường hoặc vô tình hạn chế sự tham gia của học viên, còn phương
pháp đào tạo của dự án ODA lại rất chú trọng sự tham gia để đạt được
hiệu quả và chất lượng đào tạo cao hơn.
Muốn có sự tham gia của học
viên, phải biết áp dụng nhiều kỹ thuật/kỹ năng đào tạo khác nhau, trong
đó việc sử dụng các công cụ trực quan mang lại hiệu quả cao hơn.
5. Khái niệm tự khám phá
(self-discovery) được đặc biệt đề cập trong khi đào tạo. Khái niệm tự
khám phá đồng nghĩa với khái niệm sáng tạo. Sáng tạo là quy luật của
muôn đời, đặc biệt là đối với các tổ chức/tập thể. Sáng tạo là tiến hóa,
là quy luật để phát triển một tập thể (ví dụ như công ty, trường học,
…) dù là trong thế kỷ này hay các thế kỷ khác trong tương lai.
Trong một số nghiên cứu về đào tạo, có rút ra ý kiến như sau:
· Nếu chỉ nghe một cách thụ động thì chỉ nhớ được 10-20% (3 ngày sau khóa học),
· Nếu có nghe và nhìn thì nhớ 30-40%,
· Nếu nghe + nhìn + công cụ trực quan thì nhớ 50%-60%,
· Nếu có nghe + nhìn + thực hành thì nhớ 70-90%,
· Nếu học viên tự khám phá bản thân mình thì nhớ 90% (và hơn nữa).
5. Trung dung, dưới một giác độ
nào đó, là cốt lõi trong triết học Lão Trang, là giao giới của âm dương
trong Kinh Dịch, là “vô” trong triết lý Phật giáo ở Ấn độ, Nepal, … (Ở
đây không hàm ý là đào tạo viên theo trường phái triết học nào).
Có thể hiểu một cách đơn giản
là trung dung là đứng giữa và dung hòa các chính kiến với một thái độ
khách quan (không thiên vị). Trong đào tạo, khái niệm này được thể hiện
bằng cách xem đào tạo viên như là một người hòa giải, là một “trọng tài”
không thiên vị.
Đào tạo viên là người biết lắng
nghe, động viên và tôn trọng chính kiến hoặc tín ngưỡng của các cá
nhân. Không có tình cảm thiên vị hay thành kiến cá nhân trong đào tạo.
Cũng không có một ý kiến nào bị loại trừ. Cụ thể là không có chuyện
thương học viên này, ghét học viên kia hoặc ý kiến này là đúng, ý kiến
kia là sai. Để quyết định được đúng sai, cần biết sử dụng một số kỹ
thuật đào tạo được hướng dẫn dưới đây.
Căn cứ vào khái niệm tự khám
phá nói trên, học viên mới chính là người quyết định và đồng thuận cái
nào là kết luận cuối cùng, trong đó đào tạo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ
và tư vấn vì đã có nhiều kiến thức và kinh nghiệm hơn trong một chuyên
môn cụ thể. Vì vậy người ta thường gọi đào tạo viên là hỗ trợ viên
(facilitator).
Một người thầy hay là một đào
tạo viên, thì cơ bản phải có một “hành trang” gồm 3 yếu tổ, đó là kiến
thức, kỹ năng và thái độ. Kiến thức là khả năng hiểu biết sâu và rộng về
một môn học hoặc một chuyên đề nào đó. Còn kỹ năng là kinh nghiệm thực
hiện những kiến thức đó vào thực tế. Và thái độ bao gồm quan niệm/nhận
thức và những hành vi ứng xử, đặc biệt là đối với đối tượng đào tạo của
mình. Biển học là vô bờ, kinh nghiệm thì không bao giờ là đủ, nên kiến
thức, kỹ năng và thái độ cần luôn luôn được bổ sung, đổi mới và hoàn
thiện. Cần phải học từ những đồng nghiệp khác và từ cuộc sống.
6. Người lớn tuổi là
những người (giảng viên, thầy, kỹ sư, nhà thầu, chuyên gia, lãnh đạo,
chuyên viên, CBCNV, …, đến từ các BQLDA/Sở ban ngành, Bộ/Cục/Vụ/Viện,
trường Đại học/Cao đẳng/Trung cấp, …) đã có nhiều hoặc ít
kiến thức, đã trải qua nhiều kinh nghiệm, đa phần đủ khả năng để quyết
định một vấn đề là đúng hay sai. Tuyệt đối không nên có suy nghĩ chủ
quan là người lớn tuổi/học viên là “không biết gì”.
Khác với học sinh/sinh
viên là những người mới vào học (một môn hoặc một chuyên đề nào đó) và
cần “nạp” kiến thức của thầy càng nhiều càng tốt. Vì trong nhà trường,
có tồn tại đẳng cấp, nên mới goi là “thầy” và “trò”. Trong khi đó, trong
các dự án ODA, vì học viên là người lớn tuổi, nên không tồn tại đẳng
cấp dù dùng danh xưng gì đi nữa. Vì vậy đúng hơn nên gọi đào tạo viên là
“hỗ trợ viên đào tạo” và học viên là “người tham dự”.
Người viết có thể giới thiệu
một số kỹ thuật và kỹ năng đào tạo cho người lớn tuổi (nếu cần). Cũng
cần nhắc là có 2 loại hình đào tạo là đào tạo chính quy “formal
training” và đào tạo tại chỗ/nơi làm việc “on-the-job training (OJT)”.
Đào tạo chính quy là các khóa đào tạo tập trung tại hội trường hay lớp
học. Trong khi đó đào tạo tại chỗ là đào tạo cầm tay chỉ việc, hoặc dễ
hiểu hơn, là đào tạo để học viên có thể làm tốt hơn công việc chuyên môn
của mình tại nơi làm việc của họ./.
(Ngày 4/3/2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét