LTS: Mình ghi lại một cuộc trao đổi trong khi ngồi uống trà với bạn, chiều CN, ngày 26/5/2013... Lưu ý rằng bài viết này chỉ giới hạn cho một số bạn bè thân quen trong thế giới blogspot, và đang được chỉnh sửa.
Mình có hỏi một giảng viên đại học là ‘Ai là
người có trí tuệ nhất VN từ xưa đến nay?’, suy nghĩ một hồi, ổng mới lừng khừng
trả lời là ‘Lưỡng quốc trạng nguyên Phùng Khắc Khoan’. Mình mới giới thiệu sơ bộ
và phân tích cho ổng về Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Phạm
Công Thiện, Bùi Giáng, Nguyễn Hoàng Phương, Ngô Bảo Châu…, cuối cùng ổng đồng ý là ổng rất ngưỡng mộ nhân vật dưới đây, các bạn hãy đoán thử xem là ai nhé?
*
Mở đầu, mình nói với ổng là là mình không có tham vọng bao
quát hết chuyện ‘những người có trí tuệ nhất thời nay', mà thiết nghĩ là các nhà nghiên cứu/thế
hệ sau sẽ bổ sung.
Rồi mình nói tiếp rằng mình biết ai là người phụ nữ đẹp nhất
từ xưa tới nay rồi, đó là ‘Ỷ Lan phu nhân’, hì.. hì..,, các bạn hãy xem các tư liệu sau
đây:
Đồng thời, mình cũng giải thích là ‘trí tuệ’ ở đây được hiểu
theo nghĩa nào? Có người nói trí tuệ là những gì còn lại sau khi đã tiếp nhận ở
trường học/xã hội, mình còn nghĩ trí tuệ không những là lượng kiến thức mà ta có, mà còn là
sự tổng hợp, xử lý và khái quát hóa chúng thành… triết lý/ý niệm riêng của ta
trên cơ sở ‘lấy cái chung’ làm chính, và đặc biệt là sự sáng tạo.
*
Sau đây là một số ‘danh nhân’ mà đã được chúng tôi nhắc đến (theo thứ tự A, B, C, các blogger có thể xem một ít tư liệu bổ sung (A) bên dưới):
-Ngô Bảo Châu (1972-nay) là
một bộ óc xuất sắc về Toán học trên thế giới, và là bộ óc Toán học ‘ngàn năm có
một’ ở VN. Anh đã đạt giải Fields (tương đương với giải Nobel) vào ngày 19/8/2010,
tại buổi lễ, anh đã phát biểu: ‘Đến một lúc nào đó, bạn làm toán vì bạn thích
chứ không phải để chứng tỏ một cái gì nữa, hay vì đam mê giàu có hoặc sự nổi
tiếng'. Tuy nhiên, việc anh đánh giá ‘Mr. Vũ’ như Hector của thành Troya (!) dường như đã quá 'xa rời' giới hạn của thế giới Toán học.
-Nguyễn
Du (1766-1820) là nhà thơ tài tử nhất Việt Nam! (được UNESCO công nhận) mà ông
không hy vọng 300 năm sau sẽ có người ‘hiểu’ được số phận của ông: ‘Bất tri tam
bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?’ (Chẳng biết ba trăm năm lẻ
nữa. Thiên hạ ai người khóc Tố Như?), nhưng tài tử nhất không hẳn là trí tuệ
nhất!
-Lê Quý Đôn (1726-1784) được
xem là ‘bộ bách khoa toàn thư của VN’, nhưng thiết nghĩ, ngoài sự sưu tập tư
liệu khổng lồ (và có rất nhiều tư liệu đã được sưu tập trong ‘túi thẻ’ của ông
mà chưa được xử lý), ông không có ‘ý niệm’ rõ ràng, ít nhất là không mở ra được
một ‘tầm nhìn’ cho hậu thế.
-Bùi
Giáng (1926-1998) đã để lại cho hậu thế khoảng 25 tác phẩm thơ, 4 tác phẩm
‘nhận định’, 4 tác phẩm Triết học, 4 tác phẩm ‘tạp văn’ và khoảng 16 tác phẩm
dịch thuật, nhưng: ‘tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải
nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ
sâu sắc’ (đánh giá của nữ nghệ sĩ Kim Cương).
-Phùng
Khắc Khoan (1528-1613) đúng là người có trí tuệ sâu rộng và cực kỳ thông minh
đến nỗi mà vua nhà Minh (là Minh Thần Tông) phải phong làm Lưỡng quốc trạng
nguyên vào năm 1595, nhưng dù sao đó cũng là một giai thoại, và ít nhất là ông
không để lại triết lý nào cho hậu thế.
-Nguyễn
Hoàng Phương (1927-2004) có thể nói là một trong những bộ óc xuất sắc không
những ở miền Bắc mà còn ở cả VN. Ông đã viết các cuốn sách trứ danh như ‘Lý
thuyết nhóm và ứng dụng vào cơ học lượng tử’, ‘Hiện tượng vô tuyến sinh học’,
‘Albert Einstein’, ‘Toán học trong kinh Dịch’, giảng bài về ‘Phương trình đạo
hàm riêng’… mà được các sinh viên/thầy cô rất kính nể, nhưng NGLB chưa nhận
định về ‘thầy’ ở đây.
-Cao Bá Quát (1809-1855) được
xem là ‘chiếm nửa số bồ chữ trong thiên hạ’: ‘Văn như Siêu Quát vô tiền Hán.
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường’ (tạm hiểu: Văn của Siêu và Quát hơn cả văn
thời Hán. Thơ của Tùng và Tuy hơn cả thơ thời Đường), nhưng hình như ông không
có ảnh hưởng gì đến thế hệ 9x ngày nay.
-Phạm
Công Thiện (1941-2011) được xem là ‘thần đồng’ khi còn nhỏ, là ‘thi sĩ triết
gia’ khi thành danh, rất nổi tiếng với giới trí thức và sinh viên trong và
ngoài nước trước năm 1975…, nhưng theo mình, anh đã ‘quên’ tính tương đối
và tính biện chứng của thế giới tự nhiên (và quên... khái niệm tình yêu!), do đó bằng cái tôi cực đoan của
mình, anh đã không mở cho thế hệ trẻ một cánh cửa ‘thoáng’…
http://nhagomlabang.blogspot.com/2012/10/257-pham-cong-thien-anh-la-ai.html
-Nguyễn Trãi (1380-1442) với tác phẩm ‘Bình Ngô đại cáo’, chiến lược quân sự/chiến tranh nhân dân (ở
đẳng cấp cao!) và một số thơ ‘moral’ (= đạo đức), đã và đang được hậu thế ca
tụng, kể cả UNICEF, nhưng khi mình hỏi các sinh viên ‘em biết gì về Nguyễn
Trãi?’, đa số các em đều ấp úng không trả lời được!
Ngoài ra, chúng tôi còn đề cập đến Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Trần Hưng Đạo, Hải Thượng Lãn Ông, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Hiến Lê, Thích Nhất Hạnh..., nhưng mình không thể 'gom' hết mọi thứ được.
…
*
Sau một hồi lâu thảo luận, blogger nói trên thừa nhận người
có trí tuệ nhất (đối với anh) là… Đỗ Long Vân.
(Đỗ Long Vân (?-1997): Hiện
nay, trên mạng không có thông tin về tiểu sử của anh. Mình không biết nên không
thể viết ẩu được. Nếu có blogger nào biết thì vui lòng cho mình thông tin hoặc
đường dẫn, xin vô cùng cám ơn. Trước mắt, các bạn có thể tạm tham khảo tư liệu ở
phần tham khảo (B) bên dưới).
Vâng, anh ‘xuất sắc’ đến nỗi mà: ‘mình có đọc 20 trang ‘Vô
Kỵ giữa chúng ta’ của Đỗ Long Vân, sau đó mình hủy mấy trang đó đi, vì mình
muốn suy nghĩ độc lập và không muốn bị ảnh hưởng tư tưởng của người khác’.
Vâng, anh ‘xuất sắc’ đến nỗi mà thông đông-tây-kim-cổ, tự
vạch ra một hướng triết lý/ý niệm độc lập cho riêng mình, trong đó, bất chấp
mọi thứ triết học trên đời, anh dùng Kim Dung như một chiếc ‘lá bàng’ để bày tỏ
suy nghiệm của anh (mà mình thường gọi là ‘phi-triết’).
Vâng, anh ‘xuất sắc’ đến nỗi mà: ‘Đỗ Long Vân, có thể xem là
‘minh chủ’ của phê bình văn học cấu trúc luận ở miền Nam thời ấy. Chỉ có điều, vị minh
chủ ấy, một mình một phái, song không vì thế mà phê bình cấu trúc ở miền Nam mất tiếng
nói. Đỗ Long Vân tài hoa và uyên bác, với một văn thể uyển chuyển, mạnh, nhanh
như đao Đồ Long vẫn khiến quần hùng văn bút phải kính nể’ (Nguyễn Mạnh Tiến).
Vâng, anh ‘xuất sắc’ đến nỗi mà: ‘Ngay từ trước 1975, ông đã sống một cuộc sống lặng lẽ, ‘từ chối’ mọi đặc quyền, nếu có thể
gọi đây là một đặc quyền mà chế độ Miền Nam dành cho những người có bằng cấp:
được đi học trường sĩ quan Thủ Đức. Khi bị gọi động viên, ông đã trình diện như
là ‘lính trơn’, nghĩa là chẳng trưng ra những bằng cấp, chẳng nhớ gì (?) tới
những năm tháng du học Paris… Khi cả bọn xúm nhau làm tờ báo, chỉ có Joseph
Huỳnh Văn, ‘Tổng Thư Ký’ tòa soạn, mới đủ tư cách mang ‘cẩm nang võ công của
Trương Tam Phong, tổ sư phái Võ Đang’… của anh’ (NQT).
*
Dưới đây là các minh họa, lưu ý rằng các từ ‘võ học’ dưới
đây chỉ là chuyện phụ, mà cái gì đàng sau từ đó mới là chuyện chính (các bạn chịu khó đọc cách hành văn và từ ngữ được sử dụng trước 1975 nghen, hì...):
-Nguy hiểm ngoại tại người ta
có thể lấy trí năng để giải hoá. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết là chỉ có
một mất và một còn… Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng
mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi
hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo
ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin… Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở
nên “tĩnh” như Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên
của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một.
-Sức mạnh thực không cần phô
trương.
-Một cơ cấu là một cá thể độc
đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì
những gì, ở chỗ này, là những ưu điểm, ở chỗ khác, lại có thể xuất hiện như
những khuyết điểm… Thượng đế của Pascal là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi,
nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ
công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch.
-Nhưng con người của Kim Dung
trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của
nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên
một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy, tuy nhiên, mang sẵn trong nó
cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả
xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh
tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực
của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở
về và của sự tìm thấy lại.
-Xã hội người đặt chúng (tà
và chính - NGLB) vào cái thế tương nghịch. Ác của đứa này tuy nhiên cũng như
thiện của đứa kia đều có gốc ở năng tính. Và năng tính giống như một mãnh lực
của tự nhiên, trong Kim Dung, người ta biết là bao giờ cũng tốt. Khả nghi nhất
là những con người của trí năng… Người đời thường hỏi họ thiện hay ác. Nhưng họ
khinh dư luận, coi rẻ đạo lý của người đời và tự đặt những quy luật riêng để
hành động. Tham vọng của họ là mang tài mình ra cướp quyền tạo hoá… Cái trí, cái
xảo, cái tài hoa ấy tuy nhiên có một cái gì điêu bạc. Những con người ấy quá nhạy
cảm và giàu tưởng tượng. Óc của họ không ngừng làm việc, bầy mưu và thiết kế.
Làm sao trong sự dao động thường xuyên họ có thể có cái tĩnh cần thiết để tới
cái chân nguyên của võ học mà chỉ thông đạt những tâm hồn chất phác và đơn
thuần nghĩa là gần tự nhiên hơn?... Năng tính là giải thuyết của sự đối lập
giữa Thiện và Ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao?… Thì ra cái biết
thực của võ học không ở những cách khoa chân và múa tay của những chiêu lẻ mà ở
nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rối, nghĩa là đã thu những tạp
chiêu ấy và một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn
nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn
dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những
ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Nhưng người và tự nhiên
khi ấy mới thực tương đồng, trí năng và năng tính là một. Cá nhân thực hiện được
sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm
nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không còn gì dao động nổi. Ngay võ
công luyện được hắn cũng quên đi.
-Chính nghĩa không thể nào
thua… Người ta theo người anh hùng từ chiến công này đến chiến công khác. Ấy là
ngần ấy giai đoạn của một con đường chỉ có một chiều và chúng tiếp theo nhau
thành tràng hạt, nghĩa là giữa chúng không có tương quan nào khác sự tiếp theo
nhau. Từ chiến công này đến chiến công khác, ý nghĩa của truyện cũng như tâm lý
nhân vật không hề thay đổi. Chiến công nào cũng chỉ ca tụng một lần nữa cái anh
hùng của ngưới anh hùng và sự thắng trận muôn đời của chính nghĩa trên Tà đạo.
-Người anh hùng, tuy nhiên,
được miễn cái nạn tả chân thô thiển ấy. Ấy là tại con người chàng (Vô Kỵ -
NGLB) vốn là kết tinh của Chân, Thiện, Mỹ, trong sự tuyệt hảo của nó, chỉ có
thể ở ngoài tầm những tĩnh từ. Uy vĩ, khôi ngô, tuấn tú v..v… chữ nào có thể
xứng với cái bản chất siêu tục của người anh hùng? Cái mặt nạ người ta thấy
chàng thường đeo khi hành hiệp lẽ dĩ nhiên không để làm tăng trưởng một bí mật
vốn đã trong suốt như ban ngày, nhưng để xoá bỏ cái phần nhân loại cuối cùng
trong con người chàng và đưa chàng tới cái vô danh của ý niệm. Con người sau
cái mặt nạ ấy không còn là một cá nhân với những dị điểm và một đời sống riêng
tư nữa. Hắn là thần công lý… Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi.
-Lẽ dĩ nhiên vẫn có những
nhân vật tự xưng là đại diện cho chính nghĩa và những kẻ mang tiếng là của Tà
đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực.
Những người của tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan sắc, của sự thông
minh, của tính anh hùng. Ấy là không kể người nào võ công cũng cao cường, cuộc
đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái tội duy nhất của họ là không coi
đạo lý của thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ thì những người có trách nhiệm duy
trì truyền thống đạo lý của võ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu nệ làm
sao!… Sự sa đoạ ấy bắt đầu khi người ta thấy những con người của Chính nghĩa
không còn xứng đáng với vai trò của họ, và dưới tay họ, những giá trị thiêng
liêng chỉ còn là những giáo điều nghiệt ngã nhưng trong thực tế thì lý do chính
để không còn ai tin vào những giá trị ấy nữa là giữa Tà và Chính võ công bây
giờ ai cũng như ai và chẳng còn mèo nào cắn được mỉu nào. Xưa người anh hùng là
người bách thắng. Và cái vinh quang ấy cho những giá trị mà chàng đại diện cho
cái đương nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn, khi từ trận
này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài những cuộc tương tàn không ai được và
ai thua. Ngay những đối thủ cũng như đã quên mất những lý do đã làm họ xâu xé
lẫn nhau. Xưa người ta giết một người để trừng phạt tội ác; giờ thì người ấy đã
làm một tội ác nào chưa không ai cần biết… Nghi vấn đạo lý tuy nhiên chưa mất
hẳn. Nó đổi chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu cánh. Nhưng khi trong
một xung đột không thể nào chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đoạ và môn phái cũng
chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết lập bá nghiệp của mình trên giang hồ
thì người ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ với nhau… Hơn thế
nữa người ta thấy người của chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải của
họ, không ngần ngại trước một phương tiện nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe
trộm, cũng đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi thì không có thủ đoạn nào họ từ. Nhưng
tất cả xảy ra như thiện chất trong người họ đã truyền cho những thủ đoạn ấy một
ý nghĩa chính đáng và không bao giờ ai tự hỏi trên sự có nên chăng của chúng…
trong sự đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra sự đối lập giữa Âm và
Dương nghĩa là giữa hai mặt của tự nhiên. Không có ai ngoài mấy kẻ ngây ngô,
còn thì giờ nghĩ đến truyện nghĩa hiệp nữa. Và giờ nếu người ta có giết nhau
thì chẳng qua là để… có thể giúp người ta thành bá chủ võ lâm.
-Sự tương đối hoá những võ
công, người ta thấy đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và
tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thuỷ của sự xung đột giữa họ. Còn
lại một thế giới của bạo động thuần tuý. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn
những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa
Tà và chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự
tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái
khác và, như một quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô
địch. Sự tương đối hoá những võ công đã dẫn tới sự tương đối hoá những giá trị
đạo lý…
-Tại cái đang xảy ra người ta
cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất đi ý
nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn… Nhưng có gì trong
lúc này không là một câu hỏi! Và chúng theo nhau đến dồn dập và nhức nhối.
Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau… Nghi vấn này chưa được
giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là người anh hùng
không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên cái gì… tình cờ hết bị lôi vào chuyện
lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy
mình trở thành một cái gì mà mình cũng không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo
chàng vào một Bát Quái Trận Đồ và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc
thất lạc trong Mê Cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự
kiện khả nghi. Xưa tất cả có một ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải
không có nguy hiểm nào đe doạ người anh hùng. Nhưng những nguy hiểm nào cũng có
thể bị gọi tên, nghĩa là giới định và chỉ có ở ngoài. Mỗi sự kiện giờ trái lại
là một sự ngỏ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới
đầy ban đêm, đầy bất trắc và những quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ
của mọi vật tất cả đều có thể xảy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta
tới đâu và cái gì chờ người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, cảnh nhá
nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không
phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như một bóng tối,
không những trùng điệp trước mặt, mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh
hùng… Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ: là bị ném vào một thế giới mà họ
không hiểu trong đó họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không là Tà, Chính không
ra Chính và cả thế giới, sa đoạ trong một tình trạng bạo động thường trực,
không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng. Đi tìm mình, người anh hùng
cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới… Người anh hùng Kim Dung là con của kinh
nghiệm và của sự tình cờ, ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền
thống sụp đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con
người ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng ra một cái gì khác
hẳn những tham vọng nguyên thuỷ của chàng… Con người bị thế giới thay đổi. Ấy
là tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị vây
giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại lại khó hiểu mà sau lưng
chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi một võ công
thất truyền nhắc lại như tiếng vọng của một cái gì thần bí và hoang đường.
Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng thế giới như không có giới
hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết võ công này lại có võ công khác cao
hơn và như người ta nói, ngoài trời lại có trời. Kinh nghiệm của người anh hùng
là kinh nghiệm của cái vô cùng, cái bên kia, cái khác… Ở khắp nơi xao xác tiếng gọi của Huyền bí và
của Vô cùng.
-Xã hội lên án những người ấy
(ví dụ: Tạ Tốn - NGLB) là tà đạo. Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới
hạn của cuộc sống tầm thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giiới
hạn tự nhiên của con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì
đến Trời họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy người ta đã nhận ra người anh
hùng của văn học lãng mạn… Và như trong những truyện cổ Hy Lạp, thần linh đã
trừng phạt sự kiêu ngạo của họ và làm họ hoá điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn
là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm người ta sợ hãi, tại trong sự thất
bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân… Người ta chạm trán trong
họ với cái phi lý của định mệnh.
-Định mệnh, thần linh, thiên nhiên, thế giới, tất cả đều lớn hơn con người như
sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khi
đã khuất phục cái mênh mông của sa mạc, sẽ gặp lại, trước giờ nhắm mắt là một
cô độc không thể vãn hồi… Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và
cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy
chính là sự thống trị, khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng
người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền
thống nghĩa hiệp? Thì người ta sẵn sàng dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ
và ngu đần! Và có lẽ cũng như tác giả Don Quichott, ở cái thời mà vàng của Mỹ
Châu tràn ngập những thị trường Địa Trung Hải, làm sống lại sự giao thương, tao
loạn và những thuyết nhân bản, xoá nhoà trong trí nhớ của mọi người sự nghiệp
oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những
truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc tiếu ngạo giang hồ. Những anh
hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có
những cá nhân.
-Trong thế giới của họ chữ
tình chỉ mang một tương quan tại ngoại, ước lệ và trừu tượng qui định bởi thứ
bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý… Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng.
Nhưng tình yêu là cái duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn.
-Sự giá trị hoá cái tình
trong Kim Dung, tuy nhiên chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hoá đời
sống tâm hồn… Ấy không phải một tâm hồn mà một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều
lắm là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của cá
tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy rõ. Nhưng
Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một người không bao giờ có thể đạt
tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa diện, và trong họ lúc nào
cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn con người vẫn thường biết. Hơn thế
nữa, trong Kim Dung, người ta vào đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây
dựng. Cho nên cái vô định tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật - và
nhân vật nào cũng chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên của họ
người ta biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn
tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn những nội
dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở sau cái dịu dàng,
sự thuỷ chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của nhân vật Kim Dung không diễn
tả cái tâm hồn của họ. Nó dấu cái tâm hồn ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như
một cái gì rất sâu xa… Nhân vật võ hiệp cổ điển, ngược lại, cảm ra sao thì tình
cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là diễn tả một cách trực tiếp và minh bạch qua
những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm một tiếng cười, một
điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì thế mà càng cố làm ra như
thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên,
chúng lại chợt tắt đi và những nhân vật, sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như
không có gì xảy ra… Nỗi buồn không được nói ra nhưng nó đè nặng trên mỗi cử
chỉ. Ấy là một nỗi buồn đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền
ngẫm, một nỗi buồn đã hoá ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật
cho nó một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới... Người ta bước vào từ
chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái Kim Dung mang vào truyện võ hiệp
là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn của mỗi người là một tâm sự không thể
nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình -
theo nghĩa bóng và theo cả nghĩa đen của chữ ấy - như người ta chỉ thấy trong
cái hàm hồ của những cử chỉ một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ
nhận.
-Nhân vật được nhân loại hoá,
và, như người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng
hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta kể theo
quan điểm của chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những chuyện ấy chỉ có chính
nghĩa là có thực, chứ tà đạo chỉ có như một đồ phụ thuộc, một thứ ký sinh, một
bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của chính nghĩa. Nhưng khi tà và chính không còn
minh định thì lẽ dĩ nhiên không có quan điểm nào được coi là ưu tiên.
-Thời của sự đại ly khai, anh
hùng xuất hiện ở khắp nơi, mỗi người xưng bá một phương, lập ra một môn phái
riêng, theo đuổi một lý tưởng riêng và sâu xé lẫn nhau. Sự thống nhất không còn
nữa mà cũng không ai có đủ sức khuất phục cả võ lâm dưới uy quyền của họ. Kết
quả là một cảnh phân hoá cùng cực. Những tiêu chuẩn đạo lý đều bị thủ tiêu. Tà
và Chính sau cùng đều như nhau và những xung đột của võ lâm chẳng có nghĩa gì
hơn những cuộc tương tàn của thú dữ. Ấy là thế giới của tự nhiên mà vật lực làm
chủ, và cũng là thế giới của ảo tưởng. Người ta giết nhau cho những danh từ.
Không ai thắng được ai. Nhưng trong cuộc xung đột không thể kết thúc ấy mọi ý nghĩa
đều sa đoạ. Lý tưởng cũng viễn vông như tham vọng.
-Trong sự xung đột giữa con
người và thế giới, sự thắng trận sau cùng trong Kim Dung bao giờ cũng thuộc về
thế giới. Thế giới sẽ thường xuyên vượt khỏi vòng tay ôm của con người. Con
người Kim Dung đã biết tất cả những cám dỗ: của đạo lý nghiêm khắc, của ý chí
thống trị, của tinh thần cứu rỗi. Tiếng gọi lớn nhất tuy nhiên sẽ là tiếng gọi
của cuộc đời xuất thế nghĩa là của sự trở về. Khi xét đến võ học trong Kim Dung
người ta thấy rằng ông rất ngờ vực trí năng và sức sáng tạo của con người. Ấy
theo ông là mầm của mọi ly tán. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng, mặc dầu
tính chất lãng mạn, một Vô Kỵ sẽ kết thúc những phiêu lưu của mình như Candide
của Voltaire. Sự thất bại ấy của người anh hùng thật là quá êm đềm để không có
vẻ khả nghi. Nhưng người ta hiểu rằng trong Kim Dung cái lãng mạn chỉ có một
giá trị giai đoạn: ông đã lấy cái mênh mông của thế giới để thoái chí anh hùng,
lấy một nhân loại đa sắc ra làm đảo lộn những ý nghĩa đạo lý, lấy cảm động làm ý
thức suy vong, lấy ngây ngô chống lại tài mưu trí, nói tóm lại lấy tự nhiên
chống lại cái nhân văn, và kết quả là sự thất bại của người anh hùng trước cuộc
đời như thế.
-Tiếp theo sự phát triển của
thương mại và của kỹ nghệ nghĩa là của văn minh thành phố, cuộc đời, hết bị quy
định bởi những giáo điều và những nghi lễ truyền thống của xã hội nông nghiệp,
xô cá nhân vào một thế giới của nghi vấn, của phiêu lưu và của sự tranh sống… Nhưng
sự mở mang của những thành phố của chúng ta đã không phải là một sự kiện phát
triển từ trong ra mà đã diễn tiến theo những kế hoạch và với tài nguyên của Tư bản
quốc tế, để phụng sự cho quyền lợi của họ. Nhất là cái tư bản ấy lại là thứ tư
bản độc quyền mà ưu tư tiên quyết là tập trung, tổ chức và kế hoạch… Một đằng
thì xã hội ấy, mà những điều kiện lịch sử không cho phép sự trở thành của một
giai cấp tư sản đủ sức tự lập, trong chừng nào nền kinh tế của họ còn thiết yếu
dựa trên sự tự do doanh thương, thì dường như khó tránh được một sự phụ thuộc
chặt chẽ vào cái tổ chức liên lục địa của tư bản chế, và một đằng khác cũng
không thể để sự phụ thuộc ấy trở nên một sự lệ thuộc mới, người ta thấy họ
thường xuyên phải duy trì áp lực của một ý thức hệ quốc gia cực đoan. Ấy là một
điều dễ hiểu. Nhưng tai hoạ bắt đầu khi ý thức hệ ấy lại trở nên một dụng cụ để
đàn áp những thành phần khác của xã hội và dưới những nhãn hiệu khác nhau người
ta gọi là phi dân tộc và để biến những thành phần khác thành những dụng cụ để
bảo vệ chính cái phi dân tộc của chế độ tư bản. Những mâu thuẫn cam go ấy mà sự
can thiệp võ trang của người ngoại quốc lại gia tăng gấp bội, chúng ta thường
tự hỏi là chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng có những xã hội sống bằng sự
nhất trí thì cũng có những xã hội dựa trên sự mâu thuẫn của nó để trường tồn… Cũng
không phải ngẫu nhiên mà những xu hướng tư tưởng như thế, từ Thái hoà
luận của Leibnitz đến gần chúng ta hơn, Cơ cấu luận của Claude
Lévi-Strauss, thường xuất hiện ở những thời mà sự bành trướng của Tây phương đã
mang lại cho nhân loại không biết bao nhiêu là đau khổ...
*
Tình yêu của Nick Vujicic
Cảm xúc về Kim Dung, mình có
viết một đoạn như sau (xem phần bổ sung C ở dưới):
‘Hỡi các bạn, hãy kiểm tra
lại xem, có mấy ai viết mà không có tình yêu trong đó. Ai đã tuyên bố ‘hỡi thế
gian tình là gì, mà đôi lứa thề nguyền sống chết’ hay ‘thiên thu vạn tải khổ
cũng yêu’, 'yêu' và 'chết vì yêu' có thể đồng nhất hay không đồng nhất đối với
từng cá thể, nhưng tình yêu không chỉ là tình yêu nam nữ mà còn là khát
vọng sống và khát vọng tự do. Tình yêu là bản chất của cuộc sống, là cứu cánh và là mẫu
số chung cho tất cả mọi người mà bất chấp sự vận hành vô tình của vũ trụ đại
ngàn, con người chỉ có thể bất tử trong tình yêu và nếu không có tình yêu, loài
người sẽ không có khái niệm hạnh phúc và sẽ không tồn tại’.
http://nhagomlabang.blogspot.com/2012/12/phi-kim-dung-va-tinh-yeu.html
Nhận định về Đỗ Long Vân, trong cuốn ‘Thi ca tư tưởng’, Bùi
Giáng viết:
‘Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng
thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam hiểu tư tưởng lớn
của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người Đông Phương, Tây
Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan
trọng của cuốn sách kia quả thật rộng rãi không cùng. Tôi có thể đưa ra
vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết. Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông
đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người
ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác phẩm của những thiên tài xưa nay, bất
luận là Đông Phương hay Tây Phương… Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm
riêng cuốn ‘Trương Vô Kỵ Giữa Chúng Ta’ để đọc lại nhiều lần'.
Lá Bàng ngẫu nhiên gom được một câu nói của nhạc sĩ Đỗ Bảo
đại khái như sau: ‘Nếu tôi tự nhận tôi là người đánh đàn hay thứ 2, thì
không có ai dám nhận mình là người thứ nhất’. Còn nếu Bùi Giáng ca tụng Đỗ Long
Vân là người có bộ óc xuất sắc thứ 2, thì có ai dám nhận mình là người
thứ nhất? Hì.. hì...
-----------------------
Tư liệu tham khảo:
A. Người Việt có gì?
C. Lược trích 'Phi Kim -Dung và tình yêu' - NGLB:
-Một cách đơn giản, ông chỉ
nhìn thế giới tự nhiên này vận động và đứng ở một góc nào đó mà mô
tả bằng chính cảm nhận của trái tim mình. Sự phát triển của các nhân vật của
Kim Dung cũng tự nhiên như là bàng rơi rụng, không ai có thể dự đoán trước số
phận gì sẽ xảy ra cho các nhân vật. Sự sáng tạo các môn võ công cũng là kết quả
học hỏi từ tự nhiên như các môn Hầu quyền, Hạc hình quyền hay Thái cực quyền.
Điều này cũng cũng tự nhiên như khi Einstein sáng tạo ra ‘Thuyết tương đối’,
như khi Newton khám phá ra ‘Định luật vạn vật hấp dẫn’ hay như anh chàng
Sác-lô (Charlie Chaplin) nghĩ ra những chuyện hề vậy.
-Có lẽ người đọc sẽ bị hạn chế
bởi các loại ‘đạo’ trên (vd: trà đạo, kiếm đạo - NGLB) mà có khả năng bị rơi
vào thế giới của phân tích, sa vào chi tiết ‘nhìn thấy cây mà không thấy rừng’,
và do đó càng xa rời chân lý!
-Thế giới của Kim Dung là một
thế giới đa cực và đầy mâu thuẫn, thiên hạ chia năm xẻ bảy, có vô số thế lực
giành giật hay tranh chấp quyền lợi lẫn nhau mà mọi giá trị của con người có
thể bị đảo lộn và thậm chí bị thủ tiêu. Chuyện đó thường xuyên xảy ra dưới thời
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tiền tư bản/thuộc địa nửa phong kiến, rồi tư bản
ngày nay. Theo ông, qua mỗi thời kỳ đó, con người vô tình trở thành nạn nhân,
bị lợi dụng và do đó bị dày xéo trong các cuộc tranh chấp tương tàn đó, và do
đó chuyện ‘thân phận con người’ vẫn là quy luật của muôn đời. Có thể tạm hiểu
rằng khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời cùng với cái được gọi là
‘thế giới tự do’ hay ‘nền kinh tế thị trường’ thì đã đi ngầm với ý đồ thống trị
mà trong đó thế giới dường như vận hành theo ý đồ của các nước lớn. Chẳng hạn,
một số nước giàu mạnh có thể dễ dàng nhúng tay vào chuyện của Liban,
Israel, Afghanistan, Irac hay Iran, hay có những nước đang bành
trướng thế lực ở biển Đông. Nhưng những vấn đề này là một thực tại mà còn dài, khó
hiểu và rất phức tạp.
-Tư tưởng hay chân lý của loài
người như một cái hình xoắn ốc mãi tiến hóa và biến ảo khôn lường từ 'trên' quy
mô vũ trụ đến mức 'dưới' hạt lượng tử mà ta không bao giờ tiếp cận được đến nơi
đến chốn. Ta không thể sắp xếp tư tưởng con người như ta sắp nguyên tố vào bảng
phân loại tuần hoàn của Mendeleev, như ta lấy nhiều mảnh nhỏ từ nhiều tờ báo
khác nhau để ráp thành một bức tranh, hay những hạt cát gắn nhau để trở thành
cái hòn non bộ, như sự phân rã hạt nhân, như những bức tranh hội họa lập thể
của Picasso hay như việc thiết lập một bản đồ Gen.
-Thế giới này cuối cùng vốn là
bất khả tư nghị, là nghi vấn, là bí mật vĩnh viễn và là cái mà làm cho con
người đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác, dù cho đến mãi 10.000 năm sau hay
mãi mãi nếu loài người còn tồn tại. Thế giới này sẽ mãi mãi đặt ra cho
chúng ta câu hỏi ‘ta là ai’ mà không bao giờ có lời giải đáp hoàn hảo, bất chấp
bạn có là thiên tài xuất chúng đến đâu chăng nữa.
-Thế giới con người - thuộc về
thế giới tự nhiên - là vô bờ bến và trùng trùng duyên khởi và do đó
nó là kết quả của sự tác động tương hỗ của
rất nhiều yếu tố có liên quan từ quá khứ vô cùng đến hiện tại. Nó là một sự kết
nối của các 'dấu chấm' như Steve Jobs đã nói. Cái thuận và cái nghịch đều có
giá trị tương đương và có thể kết hợp thành một bức tranh hoàn chỉnh như 'Lưỡng
nghi đao pháp' và 'Phản lưỡng nghi đao pháp' vậy. Cái gì trên đời này cũng
có khắc tinh của nó, ví dụ như Hàm Mô Công thì có Nhất Dương Chỉ trị vậy. Người
ta có thể lợi dụng cái của người để chống lại người như môn 'Càn khôn đại na
di' hay 'Đẩu chuyển tinh dời' vậy. Sự phát triển nội tại mới là thuộc tính vốn có của con người, theo Kim Dung,
một trong những yếu tố ngoại tại quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển nội
tại là cơ duyên, ví dụ một Trương Vô Kỵ rớt xuống vực thẳm mà học
được ‘Càn Khôn đại na di tâm pháp’ hay một Lệnh Hồ Xung hay Dương Quá lạc vô
hang động mà học được ‘Độc cô cửu kiếm’ vậy.
-Con người sao mà dám tham
vọng vượt quyền tạo hóa, sao mà dám tham vọng làm ‘Tề thiên đại thánh’, sự trả
giá cho tham vọng đó làm con người bị tẩu hỏa nhập ma, cô đơn, tự mình bỏ tù
mình mà không có ngày mãn hạn hay tự lấy núi ‘Ngũ Hành’ mà đè lên xác thịt và
tâm hồn của mình.
-…Con người đã lợi dụng chính
nghĩa quá nhiều khi đả kích tà đạo. Có lẽ ông (Kim Dung – NGLB) chiêm nghiệm
được là tà đạo nhiều khi tốt hơn chính đạo. Con người dù độc ác đến đâu vẫn tồn
tại chút phật tính trong đó… Có tính chất tương đối trong sự khác biệt giữa
chính và tà, phải chăng các giới hạn hay sự phân biệt trên là do con người đặt
ra phụ thuộc vào nhận thức hay lợi ích của một người hay nhiều người, và trong
một chừng mực nào đó, có thể bị lợi dụng làm một công cụ để dựng nên sự tranh
giành quyền lực và tiêu diệt lẫn nhau… Không cần quan tâm đến cái mà người đời
gọi một cách 'máy móc' là tà hay chính, y (Dương Quá - NGLB) còn là một đại diện xuất sắc của con
người vượt lên những thành kiến, phong tục tập quán, những luật lệ hay quy định
hạn chế và có tính cách truyền thống của con người, để đi đến bến bờ của tự do
tư tưởng.
-…Phải chăng số phận của con
người đến từ sự ngẫu nhiên, con người được sinh ra và phát triển trong một thế
giới xa lạ mà không phải do mình tự chọn, và do đó bản chất con người cũng là cô
đơn. Chính những nhà chính trị khi thành công tột
đỉnh thường bị sụp đổ về tâm lý và đi vào sự cô đơn gần như tuyệt đối, như
Thành Cát Tư Hãn, Nhậm Ngã Hành, Nhạc Bất Quần hay Tào Tháo. Con người khi cô
đơn nhiều khi buộc phải tìm mọi cách để phá cái
hạn chế về tinh thần và cái thân phận nhân sinh tuyệt
khổ mà thượng đế áp đặt cho họ.
-Những triết lý
của Kim Dung thường dẫn đến cái vô định tính, với câu hỏi cuối
cùng con người là ai, sẽ giải quyết được gì và sẽ đi về đâu, Kim Dung đã và
đang im lặng, một sự im lặng mang tính hư vô và đầy ý nghĩa vì bất cứ
một sự trả lời nào cũng phá tan ý nghĩa của hai từ im lặng đó. Có phải cuộc đời
này giống như một thế cờ 'Trân Lung' mà bất cứ một kỳ thủ tuyệt đỉnh nào cũng
không giải được!
-...Con người không loại trừ ai,
đang tồn tại bằng tự nhiên tính mà là một thứ
cứu cánh gần nhất và thực tế nhất để ngõ hầu đạt cái tự do tự tại trước mắt,
mặc dù chân lý cuối cùng của con người là vô định tính mà đối với họ là quá xa xôi.
-…Con người khác động vật là ở
chỗ có tình yêu mà chính thượng đế phải nể phục và nghiêng
mình trước sự kỳ diệu của tình yêu mà con người đã thể hiện (bởi lẽ ngài cũng
không thể hiểu được tình yêu đó). Con người chứ không ai khác đã tự sản sinh ra
tình yêu sau khi ăn trái cấm, mà thượng đế chỉ ban tặng cho họ không khác gì là
hai xác thịt chứa đầy rẫy những tình dục, cô đơn và đau khổ. Chính tình yêu làm
cho con người vượt qua giới hạn của chính - tà, vượt qua nỗi cô đơn, nhẹ đi đau
khổ và đặc biệt tình yêu là liều thuốc thần diệu giúp con người vượt qua nỗi ám
ảnh về hai chữ hư vô.
-Tà đạo vốn có sức mê hoặc hơn
chính đạo, người ta nói sắc sắc không không, nhưng chính cái sắc mới có tính
‘người’ hơn bởi nếu ta bỏ cái sắc đi thì không còn khái niệm con người nữa. Nếu
người đàn bà lúc nào cùng đoan trang, hiền thục hay quá mực thước mà không có
chút ‘tà’ nào thì chắc không đáng yêu lắm, có mấy ai lại đi tìm một tình yêu nơi
nữ tu!
-Bằng cảm xúc của mình, Kim
Dung đã thể hiện các triết lý của mình một cách tự nhiên không cố ý bằng cách
thông qua các nhân vật đầy cá tính. Tâm lý nhân vật của Kim Dung rất đa dạng mà
ta có thể tìm thấy ở đó một ví dụ cho một con người ở đời thường, trong đó
những nhân vật được xây dựng phần nhiều đều có xu hướng tiến đến hư ảo hay hư
vô tính, những kết cục của họ là vô định tính, và đặc biệt là những mối tình
diễn ra đều là phiêu diêu tính.
-Chữ ‘chân, thiện, mỹ’ nên đặt
vào một con người như Tiêu Phong, một kẻ thật sự xứng danh là anh hùng cái thế,
một cái ngưỡng rất ‘người’ mà khó có ai có thể vượt qua ngưỡng ấy, một anh hùng
mà khó có thể có ai anh hùng hơn, một tình yêu nhân loại cao cả mà khó có tình
yêu nào cao cả hơn, và một con người nếu mà ta không yêu y thì có lẽ không còn
ai để yêu nữa. Y đã yêu A Châu, không sở hữu cô ấy cho riêng mình và cũng không
chiếm hữu cô ấy. Đặc biệt, tính cách cao cả và tình yêu con người của y hầu như
bao gồm hết tinh túy của những cao cả và tình yêu mà nhân loại có thể có được.
Không tồn tại sự phân biệt chủng tộc hay chúng sinh trong tâm hồn của y. Sự kết
thúc của chàng để đạt được khát vọng của tự do đến nay vẫn chưa có bút mực nào
có thể tả xiết.
-Y (Vô Kỵ - NGLB) là một
con người không quan tâm đến không thời gian, không màng đến hay anh hùng thiên
hạ vô địch, giáo chủ Ma giáo hay Minh chủ võ lâm hay không đòi hỏi một tình yêu
màu hồng và bất tử. Thế mà do cơ duyên, chàng đã có danh vọng, địa vị, trí tuệ
và tình yêu. Việc chàng được phái nữ yêu quý và cuối cùng có được người đẹp
Triệu Minh, được các người Ma giáo nói rằng chàng đã khéo vận dụng bí quyết
'Càn khôn đại na di' vào tình yêu! Nhưng rồi những sản phẩm dường như là ảo ảnh
của cuộc đời đó sẽ đi về đâu, ‘Lưu như thủy hề, thệ như phong, bất tri hà xứ
lưu hề, hà sở chung’, đúng, tất cả sẽ là vô định xứ,
không có gì là không có gì.
-Tại sao con người sinh ra
thường phải chịu số phận bị ruồng bỏ, sĩ nhục, chà đạp, chèn ép, hiểu lầm, buộc
tội, oan sai, mồ côi, mặc cảm, tha hóa, cô đơn, tuyệt vọng, hãi hùng, đau khổ,
bệnh tật nan y, tăm tối hay lưu vong, đâu là bến bờ tự do của con người, khi
nào ta có được tâm hồn như trẻ thơ vui đùa bên những dòng suối nhỏ, phải chăng
tất cả các khát vọng đều là ảo ảnh?
Tại sao khi ta sống với con
người lại phải đeo một cái mặt nạ ‘bằng mặt không bằng lòng’, có phải con người
phải sống nơi Đào Hoa đảo, Băng Hỏa đảo hay Linh Xà đảo, Cổ Mộ, Tuyệt Tình Cốc,
trong phòng vắng hay chết đi mới đạt được sự tự do?
Tiếng khóc trẻ thơ đã thức
tỉnh con người đại ma đầu như Tạ Tốn, Diệp Nhị Nương hay Lý Mạc Sầu có khả năng
quay trở về với thiện tính của con người. Khi nào con người có thể từ bỏ lòng
nung nấu căm thù như Tôn Tẫn, Câu Tiễn hay Tạ Tốn, khi nào ta có thể ‘buông dao
đồ tể mà trở về với cửa Phật’?
-Có phải con người, khi chiêm
nghiệm đủ ý nghĩa của cuộc đời, thường mơ một giấc mộng yên bình, mơ một cuộc
sống bình thường không lo lắng như Trịnh Công Sơn muốn quay về ngồi yên dưới
mái nhà hay như Tiêu Phong và A Châu muốn trở về bộ lạc để nuôi dê và hưởng một
cuộc sống êm ả thanh bình suốt đời?
Có phải ánh trăng lửng lờ, mặt
hồ man mác, lá rụng mùa thu, mái chèo nhặt khoan, tiếng đàn êm dịu, tiếng sóng
vỗ đại ngàn, rừng hoang gió thổi xạc xào lá, những ngọn núi khói sương bàng
bạc, những khoảnh khắc tỉnh mộng trong đêm, dõi nhìn những hàng cây trùng trùng
điệp điệp, lắng hồn trong khúc ‘phụng cầu kỳ hoàng’, ngồi bên thềm lặng nghe
giọt nắng, thảng thốt dưới ánh chiều tà, hay ngồi ở quán bên sông và chìm vào
đáy mắt hồ thu của mỹ nhân…, mới đưa tâm hồn ta trở lại sự tĩnh lặng và do đó
ta đạt được ngộ tính của tình yêu?
Có phải thế giới này tự nhiên
nhiên nhiên đến nỗi ta không muốn làm anh hùng cũng bị bắt phải làm anh hùng,
ta không muốn nghèo vẫn bị bắt phải nghèo, ta không muốn làm vua cũng bị bắt
phải làm vua, ta không muốn làm ăn mày cũng bị bắt phải làm ăn mày, ta không
muốn có người đẹp thì bắt phải có người đẹp, hay khi mà ta muốn có người đẹp
thì chờ đợi mãi chả có bóng hồng nào?
Không có cái tiền kiếp nọ sao
có kiếp này. Không có Dư Đại Nham xuống núi thì sao có Trương Vô Kỵ, sao có anh
hùng thiên hạ vô địch, sao có Giáo chủ Ma giáo, sao có Minh chủ võ lâm. Không
có Dương Thiết Tâm, không có Hoàng Nhan Hồng Liệt thì sao có Dương Quá, sao có
‘Ám nhiên tiêu hồn chưởng’, sao có Thần điêu đại hiệp, sao có Tây Cuồng và sao
có chuyện 'Song kiếm hợp bích'? Phải chăng mọi việc trên đời đều có tính trùng
trùng duyên khởi? Và phải chăng những điều Hồ Thích nói về 'xã hội bất hủ'
không nằm ngoài phạm trù này?
-Hỡi các bạn, hãy kiểm tra lại
xem, có mấy ai viết mà không có tình yêu trong đó. Ai đã tuyên bố ‘hỡi thế gian
tình là gì, mà đôi lứa thề nguyền sống chết’ hay ‘thiên thu vạn tải khổ cũng
yêu’, 'yêu' và 'chết vì yêu' có thể đồng nhất hay không đồng nhất đối với từng
cá thể, nhưng tình yêu không chỉ là tình yêu nam nữ mà còn là khát vọng
sống và khát vọng tự do. Tình yêu là bản chất của cuộc sống, là cứu cánh và là
mẫu số chung cho tất cả mọi người mà bất chấp sự vận hành vô tình của vũ trụ
đại ngàn, con người chỉ có thể bất tử trong tình yêu và nếu không có tình yêu,
loài người sẽ không có khái niệm hạnh phúc và sẽ không tồn tại.
http://nhagomlabang.blogspot.com/2012/12/phi-kim-dung-va-tinh-yeu.html