Thứ Năm, 25 tháng 7, 2013

414. Triết học Mỹ có phải là một thứ gì quá bí mật?

Nhưng lớn lên, anh lại nghĩ xa hơn.
Cuộc sống đã chỉ cho anh.
Mọi triết lý đều có các điểm riêng,
hãy tưởng tượng, đó là vỏ quả cà phê, (hay vỏ củ hành),
nhưng mọi triết lý lại đều có một điểm chung,
đó là nhân của chúng.
*
Cuộc sống dường như, anh thiết nghĩ.
Đại để là từ ‘trong chốn mờ sương, em… thấy anh’
cho đến ‘ta hãy yêu cả những giọt nước mắt,
vì nó là... kết tinh của tình yêu,
theo mọi nghĩa’.
(NGLB)
Bài viết này gồm có:
1. Thiện tai, thiện tai!
2. Triết học nào cũng là triết
3. Ba giai đoạn chính của triết học Mỹ
4. Lôi thôi triết học Mỹ
5. Cách hiểu ‘trực quan’ ngày nay
6. Sự ‘tự-khám-phá’

Tối 22/7/2013, LB có băn khoăn là Lý Tiểu Long là người Tàu hay người Mỹ? và triết của anh là triết Tàu hay triết Mỹ? (LB đã có trả lời trong entry 413), rồi LB bỗng có cảm hứng viết ít ít về đề tài ‘triết học Mỹ’ này. 
1. Thiện tai, thiện tai!
Triết học Mỹ có phải là một thứ gì quá bí mật đối với các blogger?
LB không nghĩ vậy, mà là do cách dùng từ và cách viết sách triết ở ta. Lưu ý rằng, đa số người cần đọc sách triết là các sinh viên (vì đang học triết tại trường), nói chung là từ 18-30 tuổi (vì có sinh viên đi làm mấy năm… rồi mới đi học đại học). Còn những người lớn tuổi, sáng chở con đi học, làm việc quần quật suốt ngày, chiều đón con về, lo cơm nước, nhà cửa, tối chăm cho con học, suy tính chuyện ‘kinh tế’ cho ngày mai, có thể ốm đau bệnh tật, hay tiền chưa kịp xài gì thì sắp… hết, chưa kể đến chuyện mâu thuẫn vợ chồng/nội bộ gia đình, lấy thì giờ đâu mà đọc sách triết, mà càng đọc sách triết thì càng… nghèo, hì.. hì…, phải hôn các blogger?

Trước đây, học triết Tây, LB gặp phải từ ‘chủ nghĩa hiện sinh’, từ đó sinh ra chuyện sinh viên chả hiểu ‘hiện’ là gì? ‘sinh’ là gì?, mệt quá!... Theo cách hiểu thông thường ở quán cà phê hiện nay!!!, hiện sinh là xu thế đi vào cái tôi một tí (có thể cực đoan), ủy mị/‘vàng’ một tí, hư vô một tí, bi quan, bế tắc một tí hay nhiều tí… như kiểu của Nietzsche, Hemingway, Marquez… Thì ở đâu mà chả hiện sinh, ở đâu mà chả nói ‘đời là bể khổ’, ví dụ như Chế Lan Viên có lần thốt lên ‘Với tôi tất cả như vô nghĩa, tất cả không ngoài nghĩa khổ đau’, hay Trịnh Công Sơn chả nói là ‘cát bụi mệt nhoài’, ‘cuộc đời mỏi mệt’, hay ‘xin úp mặt bùi ngùi’... đó sao? 
Rồi học triết Mỹ, LB gặp phải từ ‘chủ nghĩa thực dụng’, từ đó sinh ra chuyện sinh viên chả hiểu ‘thực’ là gì? ‘dụng’ là gì?, mệt quá!... Nói nôm na, thực dụng là xu thế lấy thực tiễn/hiệu quả (có thể là lợi nhuận) làm thước đo cho mọi giá trị, ví dụ ‘khách hàng là thượng đế’… Thì ở đâu mà chả thực dụng, nếu không tin, sáng mai bạn xách cái giỏ đi chợ thì sẽ thấy dân ta đang thực dụng gấp… 10 lần dân Mỹ!
Việc đưa quá nhiều khái niệm trong triết học, việc sử dụng quá nhiều từ Hán-Việt mơ hồ/khó hiểu như: hiện sinh, thực dụng, tâm thức/cảm thức, bản ngã, siêu hình, hiện thực huyền ảo, phạm trù, hố thẳm, tha hóa, xã hội bất hủ, duy linh/duy ngã, thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan, vô minh, cảm thức, thực chứng luận, hiện tượng luận, bản thể luận, ‘vô cực, thái cực, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái(*)’… đã và đang làm cho sinh viên rối trí, hơn là giúp các cháu yêu triết học. Ngoài ra, trong thế giới blog, có ai đó muốn chứng tỏ là y giỏi… triết học, mà đã có dấu hiệu tận dụng thái quá các câu của Whitman, Tagore, Khalil Gibran, Fletcher, Descartes, Shakepeare, Pascal, Pauxtopski... và sử dụng các thuật ngữ mơ hồ nói trên càng nhiều càng tốt!
A di thò phò, thiện tai, thiện tai!
2. Triết học nào cũng là triết
Đã lâu rồi, một hôm đứng trước lớp, đa số là bộ đội xuất ngũ, LB mới hỏi:
-Triết là gì?
Rồi LB hỏi tiếp:
-Kinh tế là gì?
Không có ai biết, và hiện nay cũng chả có sinh viên nào biết, thiệt.
Có nhất thiết phải dùng mấy từ như ‘thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan’ hay ‘minh triết’ gì gì đó mới định nghĩa được triết học không? Có thể nói dễ hiểu ‘triết học là những suy nghiệm sâu sắc và có hệ thống’ được không? LB cho là tạm ổn, vì có nhiều người trong đời suy nghiệm được cái này cái nọ, nhưng không sâu sắc, mà nếu có sâu sắc thì cũng chỉ mô tả được ‘hột nút của cái áo, chứ không mô tả được toàn cái áo’, như vậy là chưa có hệ thống. Vì thế, những suy nghiệm của Trần Nhân Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ và gần đây là của Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện là rất sâu sắc, nhưng chưa phải là triết học.
Cách viết sách/entry triết trong thế giới blog là cứ lựa 1 hoặc vài chi tiết nào đó, rồi cố gắng ‘ép’ hay khái quát nó lên thành cái chung!, (chưa nói đến chuyện ‘ta đúng, địch sai’). Tại sao ta không làm ngược lại, từ cái chung rồi mới đi vào chi tiết?
Triết học nào cũng là triết, nó là sự phản ánh của con người trước thế giới, mà đã là sản phẩm của con người (trừ thánh) thì quy cho cùng là nó phải giống nhau, vì chả lẽ sự phản ánh vũ trụ của người Mỹ lại hoàn toàn khác với người Nga? Chả lẽ người Mỹ yêu đương lại hoàn toàn khác với người Anh? Chả lẽ người Mỹ đói bụng hoàn toàn khác với người Iraq hay Iran? Chả lẽ người Mỹ đau đầu hoàn toàn khác với người Tàu? Chả lẽ người Mỹ cần tiền hoàn toàn khác với người Nhật? Chả lẽ người Mỹ có khát vọng hoàn toàn khác với người Việt?…
Chân lý của loài người chỉ có một, không thể có chuyện môn phái A nói chân lý/thiên đàng là thế này, môn phái B nói là thế kia, môn phái C nói là thế nọ, nhưng các chân lý đó là hoàn toàn khác nhau!!!
Vậy triết học Mỹ - với tư cách là sản phẩm của con người - cũng không thoát khỏi chân lý chung của nhân loại.
3. Ba giai đoạn chính của triết học Mỹ
(Lưu ý là các thuật ngữ ‘in đậm’ dưới đây là do LB đặt)

-Vào thế kỷ 16, đầu tiên là người Tây Ban Nha, rồi người Pháp, Anh, Hà Lan… lần lượt sang định cư tại Mỹ… Thời 13 thuộc địa ban đầu của Vương quốc Anh, Washington là tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, là người hùng của ‘cuộc cách mạng Mỹ’ (1775-1783), và đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp Hoa Kỳ vào năm 1787... Trước đó, Jefferson là người đã soạn ra! ‘Tuyên ngôn độc lập’ (1776) để tách rời Mỹ khỏi Vương quốc Anh, và là tổng thống đời thứ 3 của Mỹ từ 1801-1809... Giai đoạn 1812 - 1848, có các cuộc chiến tranh Mỹ-Anh, Mỹ-Tây Ban Nha, Mỹ-Mexico... Rồi Lincoln là tổng thống thứ 16 của Mỹ, kẻ chiến thắng trong cuộc ‘nội chiến’ 1860-1865, người hùng trong việc giải phóng nô lệ ở Mỹ (Tuyên ngôn 1862), sau đó bị ám sát năm 1865… : Với một vùng đất rất mới và một môi trường hoàn toàn mới, dĩ nhiên phương thức đấu tranh, thích nghi, tồn tại và phát triển phải mới, từ đó ở ‘Mỹ’ đã sản sinh ra triết học mới hay triết học tồn tại.

-Thời đó, người Mỹ dần mở rộng lãnh thổ từ đông sang tây (về phía Thái Bình Dương), trong đó có việc mua vùng Alaska của Nga vào năm 1867, cộng với việc đánh chiếm đất đai của thổ dân (da đỏ) Mỹ kéo dài đến cuối thế kỷ 19 (xung đột chính vào năm 1890)… Rồi Mỹ thắng Tây Ban Nha năm 1898, rồi Hawaii, Puerto Rico, Guam và Philipphines lần lượt bị sát nhập vào Mỹ…: Dĩ nhiên thời kỳ này, triết học ban đầu phải biến đổi theo, tạm gọi là triết học hành động (có người gọi đó là chủ nghĩa thực dụng - Pragmatism, tuy nhiên, từ Hán-Việt này dường như không mô tả chính xác quá trình này, nếu đừng quá bám vào nghĩa đen, mà dịch là ‘năng động’ thì đúng hơn!)

-Rồi sự phát triển khoa học kỹ thuật ào ạt vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, cộng với ưu thế trong Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai, đã đem lại cho Mỹ với vị trí là cường quốc số một trên thế giới cho đến nay: Lúc này, ai thắng là quan trọng, nên mới hình thành triết học hiệu quả, mà cho đến nay, từ hiệu quả (= effectiveness/efficiency) vẫn được người Mỹ giữ nguyên.
4. Lôi thôi triết học Mỹ
(Các blogger đừng đọc đoạn này nhé, chỉ trừ trường hợp tham khảo, vì LB không hề chủ trương hiểu thế giới bằng tư liệu, một thứ tiếp cận càng-xa-rời-chân-lý).

Triết học Mỹ có nguồn gốc từ thời cổ đại như Aristote, Platon, Socrate, đặc biệt là ‘luận lý học’ của Aristote, rồi thời phục hưng - cận - hiện đại như Bacon, Berkeley, Descartes, Freud, Hegel, Heidegger, Hồ Thích, Husserl, Kant, Krishnamurti, Jung, Marx, Mill, Moore, Nietzche, Russel, Satre, Schiller, Spinoza…, mà tại Mỹ:
-C. Peirce mở đầu với ‘chủ nghĩa duy thực dụng’ (Pragmaticism, 1870), trong đó ông đề cao chân lý tương đối (sự hoài nghi, chấp nhận sai lầm) và tính thực tiễn cho đại chúng, mà thậm chí ông còn gọi nó là ‘cash value’, tạm hiểu là giá trị có thể tính được bằng tiền, và ông phê phán chủ nghĩa duy lý (lý = chân lý trừu tượng, theo ông), nhưng không hẳn như thế, vì lý còn có nghĩa là lý tính/lý trí (NGLB).
-Rồi W. James kế thừa với ‘chủ nghĩa thực dụng’ (Pragmatism, 1898) mà đi đôi với việc phân tích cụ thể, ông còn cho rằng ‘thần linh’ cũng là một loại khát vọng, đặc biệt chính hay tà là phản ứng của con người trước tự nhiên.
-Rồi J. Dewey là người kế thừa tốt nhất với cái tên ‘chủ nghĩa kinh nghiệm tự nhiên’ (và ‘chủ nghĩa đa nguyên’: đề cao tự do, dân chủ) mà trong đó mọi sự vật, hiện tượng đều có tính thống nhất và tính liên tục.
-Rồi C. Lewis đề ra ‘chủ nghĩa thực dụng khái niệm’ (1920, sau đó là Carnap, Morris, Nagel, Quine), mà khái niệm là nền tảng cho việc xây dựng lý tính của con người.
-Đặc biệt là W. Quine (rồi Davidson, Kripke, hay Santayana) với ‘triết học phân tích cải tiến’, đề cao ‘chủ nghĩa tương đối’ (1951) mà rất có ảnh hưởng đến văn hóa Mỹ hiện đại. Rồi Kuhn (1962) hay Tillish đưa thêm khái niệm ‘niềm tin’ vào xã hội khoa học hay vào tự thân…
-Rồi A. Chomsky với triết học duy lý + tự nhiên tính, Shapere với lý tính, rồi R. Rorty (hay Putnam) lại đưa ra triết học thực tại luận/‘thích nghi’ mà lý trí của con người không phải là sự phản ánh đơn thuần từ vũ trụ/tấm gương (sau 1975)…

Tóm lại, LB cho đây chỉ là một thứ trò chơi chữ của mấy ông ngồi ở trong ‘thư viện’, chín người thì mười ý, các triết gia Mỹ cũng không ngoại lệ: hôm nay thì nhất trí, ngày mai lại phản đối, ngày mốt lại cải tiến, ngày kia đưa ra quan điểm khác, rồi ngày kỉa lại đồng ý với ban đầu - chuyện ‘cái trứng có trước hay con gà có trước’ vẫn luôn luôn tiếp diễn, tiến hóa mà!, híc…, trong khi đó, trên đời này chỉ có một thứ triết học mà thôi - đó là thực tại.
5. Cách hiểu ‘trực quan’ ngày nay
Dưới đây là các phiếu (moderator card) thu được từ các học viên lớn tuổi trong một khóa học, LB xin tạm dẫn ra 10 phiếu.
Người Mỹ có các loại triết lý sau đây:
1- Phiêu diêu (yêu tự do và không màng lắm đến danh lợi) thể hiện qua nhân vật Lucky Luke hay Tarzan(*)
2- Tình yêu nam nữ là vũ trụ thật của con người, thể hiện qua lời của nhạc sĩ Leo Sayer ‘I love you more than I can say’ (tạm hiểu: anh yêu em nhất trên cõi đời này)
3- Cuộc sống thực là vô nghĩa, thể hiện qua phát súng của Hemingway
4- Nỗ lực của con người là số ‘0’ trước thượng đế, thể hiện qua ‘ông lão đánh cá’, của Hemingway
5- Đời là… cục cức, thể hiện qua ‘ngài đại tá chờ thư’, của Marquez (Mỹ la-tin)
6- Sống hết mình cho thực tại, thể hiện qua ‘thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt’ của Jack London(*)
7- Bất tử từ cái chết, thể hiện qua ‘chiếc lá cuối cùng’ và lão họa sĩ già, của O. Henry
8- Chết là bất tử, thể hiện qua Steve Jobs
9- Số phận là ngẫu nhiên, thể hiện qua tác phẩm ‘Hàm cá mập’ của Peter Benchley
10- Tất cả mọi thứ triết học (võ thuật) đều là một, thể hiện qua Lý Tiểu Long…
Vậy cái nào là triết lý đặc trưng nhất của người Mỹ?
Đó là tự do: 1, 10
Đó là tình yêu nam nữ: 2
Đó là thực tại, theo mọi nghĩa: 3, 5, 6, 9
Đó là khát vọng: 4, 7, 8…
Rồi các học viên kết luận: ‘Triết học Mỹ là một thứ chủ nghĩa duy lý mà lấy thực tại làm nền tảng’.
6. Sự ‘tự-khám-phá’
Chắc có người nói rằng LB đang ‘nói xàm’, hì…, nhưng tiếc thay, trong các lần đào tạo, các thầy không bao giờ nói dài dòng về triết học, mà chỉ đưa ra một số ví dụ thực tế, hướng dẫn các học viên tự kết luận là nó có ý nghĩa như thế nào, rồi viết thành bài giảng…

Điều mà các các học viên kết luận - triết học Mỹ có tính ‘duy lý mà lấy thực tại làm nền tảng’ nói trên - là không trái với quan điểm của Chomsky về triết học duy lý + tự nhiên tính, và của Lewis về ‘khái quát hóa kinh nghiệm’ (excellent!), nhưng dù là duy lý hay phi duy lý, đối với cặp mắt của Lá Bàng, cuối cùng nó cũng đi về duy lý, vì mục tiêu tối hậu của triết là hướng dẫn con người đi đến ‘chân, thiện, mỹ’.

Cuối cùng, người Mỹ/phương Tây rất đồng ý với sự ‘tự-khám-phá’ và rất xa lạ với các loại lý thuyết viễn vông/sách vở. Khác với một thế giới đầy ‘cảm tính’ hay đầy ‘cái tôi’ của một thứ triết lý truyền thống hay cổ điển nào đó, họ lấy lý tính làm cơ sở, và dù thực tại có như thế nào đi nữa thì họ cũng sống, chết, nuôi khát vọng, yêu và có thể đau khổ vì yêu, mà không lấy tương lai hư ảo làm món mồi nhử để ta làm con cá ở hiện tại. HẾT.
--------------------
1. Chú thích:
(*) ‘lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái’:
-Vô cực: Trước Thái cực là Vô cực, còn được gọi là hư vô, vô vi hay chân không (vacuum), là trạng thái tiên thiên của vật chất. Có thể hình dung ‘Vô cực’ như trạng thái trước vụ nổ ‘big-bang’ trong vật lý vậy.
-Thái cực được xem như là thuở ban đầu/uyên nguyên của vũ trụ vạn vật. Có thể hình dung như trạng thái sau vụ nổ ‘big-bang’ trong vật lý vậy, lúc đó vũ trụ đang ở trong trạng thái hỗn mang (chaos).
-Lưỡng nghi là Dương và Âm, trong đó Dương được biểu diễn bằng 1 vạch (‘nghi’ hay ‘hào’) liên tục (-), còn âm được biểu diễn bằng 1 vạch gián đoạn (- -).
-Tứ tượng là Thái dương, Thiếu dương, Thiếu âm và Thái âm, bằng cách chồng 2 vạch lên nhau (=22).
-Bát quái là 8 quẻ đơn (‘kinh quái’) gồm là Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn và Khôn, bằng cách chồng thêm 1 vạch âm hoặc dương lên trên nữa. 
(*) Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm… (I would rather that my spark should burn out in a brilliant blaze than it should be stifled by dry rot - Thơ Jack London, Xuân Diệu dịch).
(*) Lucky Luke: là tác phẩm bằng tranh của Réné Goscinny, lấy bối cảnh tại miền Tây nước Mỹ.
(*) Tarzan (tác-dăng) là người rừng, sau này gặp và yêu một cô gái nhà giàu..., cuối cùng 2 người trở lại sống với rừng và sinh đẻ con cái...

23 nhận xét:

  1. Triết học Mỹ có phải là một thứ gì quá bí mật đối với các blogger?
    LB không nghĩ vậy, mà là do cách dùng từ và cách viết sách triết ở ta.

    Trả lờiXóa

  2. Chiều thân tâm an lạc bác NGLB nhé!

    Trả lờiXóa
  3. Chào anh
    Sự thật vốn muôn đời là chân như (chân thật như vậy).
    Rất tiếc các nhà hiện sinh không trực nhận ra Cứu Cánh.
    Từ đó đã tự kết liễu đời mình, đồng thời đưa ra những chân lý : Đời là phi lý hoặc Vô nghĩa...
    Cuộc sống của họ không chứng đắc được như Jésu và Cồ Đàm...rồi từ đó đã đưa ra những nhận thức chủ quan định kiến.
    Tất cả muôn vật hiện hữu đều có LÝ của nó để được tồn tại...Nhớ xưa, dân Da Đỏ (châu Mỹ) đã phát ngôn : Hòn Sỏi nhỏ vẫn tương tác và đồng thời lớn lao cùng Vũ Trụ. Thật hay và rất đầy đủ ý nghĩa Hiện sinh anh ạ.
    Triết học vốn trong sáng, nhưng vì mục đích nhồi Sọ đã trở thành tối đen.
    Lạm bàn cùng anh.
    Thân mến

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cám ơn bạn TC,
      LB có học triết Tây hồi sinh viên, nay... quên hết rồi,
      đáng lẽ LB viết bài bày theo cảm tính,
      nhưng nếu như thế thì các triết gia Mỹ không hiện ta,
      và nếu như thế thì sẽ nghịch lý với tiêu đề bài viết,
      vì vậy, LB phải đưa vào chút ít tư liệu mà cần thiết thôi,
      còn tất cả đều theo cái chung mà luận ra,
      thân, NGLB.

      Xóa
    2. Cám ơn bạn TC,
      LB có học triết Tây hồi sinh viên, nay... quên hết rồi,
      đáng lẽ LB viết bài bày theo cảm tính,
      nhưng nếu như thế thì các triết gia Mỹ không hiện ra,
      và nếu như thế thì sẽ nghịch lý với tiêu đề bài viết,
      vì vậy, LB phải đưa vào chút ít tư liệu mà cần thiết thôi,
      còn tất cả đều theo cái chung mà luận ra,
      thân, NGLB.

      Xóa
  4. Thiện tai thiện tai, tới giờ này là bà già nhức đầu, vào đây học Triết nữa càng nhức đầu.. huhu về nha Thầy giáo LB ui!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chu choa, nếu viết về Phật học mà được sư thái chỉ giáo thì quý thay, nhưng LB không viết về chính trị và tôn giáo, hì..., ngày mới an bình.

      Xóa
  5. Bài viết hay đó.... Chúc anh LB một ngày an vui

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cám ơn bạn TMC, mình viết để tự học đó mà, hì..., ngày mới tốt lành nhé.

      Xóa
  6. Lưu comt Mộc:
    "Úi ùi ui nắng đang lên
    Áo vàng em ngực mênh mênh mắt... tình"

    Trả lờiXóa
  7. Huynh viết bài dài quá đọc mỏi mắt, hii

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Trùi, muội chỉ hii... là nhất thui, chiều ngoan nghen.

      Xóa
  8. Vì có những thông tin cá nhân nên không tiện đăng nhận xét của anh trên blog của mình. Rất cám ơn anh về lời mời, và sẽ sớm được cà phê cùng anh.

    Chúc anh cuối tuần vui vẻ!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Mình hiểu, blog của mình là 'sắc sắc không không' nên mình kết bạn với ai cũng được, tuy nhiên mình hiếm khi ra ngoài lắm, thân.

      Xóa
  9. Lưu comt Cô chủ nhỏ:
    "Cô chủ nhỏ, quên sài gòn
    Nắng vàng vẫn đó, lối mòn vắng ai?"

    Trả lờiXóa
  10. Lưu comt Hj ha:
    "Tháng bảy về, có dáng ai
    Bằng lăng mắc cỡ, tím phai sắc nhường
    Chiều tà bỗng dậy mùi hương
    Bỗng mây trốn nắng, bỗng nường trốn... anh!

    Trả lờiXóa
  11. Lưu comt Chân tình:
    "Quen nường chưa đến hai niên
    Mặt xinh chưa biết, dáng huyền cũng chưa
    Chiều về lá động lưa thưa
    Người xưa biền biệt, chiều mưa cuối trời..."

    Trả lờiXóa
  12. Nhà anh viết bài nào cũng triết lý cả em qua đọc và mang dưa qua cho anh thôi hiii... chúc anh cuối tuần vui vẻ an lành!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. GG làm LB cừ quá nè, đó là triết lý dưa hấu đóa, LB có còn sống bao lâu nữa mà triết lý, tối vui nghen.

      Xóa
  13. tím đây rùi! Sang thăm và chúc NGLB đêm ngon giấc + giấc mơ êm đềm nha!
    P/S: Mùa này tha hồ mà gom lá bàng.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ui, mùa này là mùa lá bàng à, nhưng LB thích gom bằng lăng tím cơ, hì..., đùa tí cho vui, tối vui nghen.

      Xóa
  14. L qua thăm a bài viết nào cũng hay và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất về "võ thuật" Lý Tiểu Long va câu châm ngôn nhân vật LUCKY "yêu vô tư không màng lắm lợi danh"

    Yêu vô tư không mơ danh lợi
    Khó khăn rồi mới chờ đợi "Thủy chung"

    L chúc A ngày mới an vui.

    Trả lờiXóa