Mỗi
con người là một cá thể chứa đầy những sai lầm, nếu không muốn nói là đầy ắp những
thú tính - mà mọi sự che giấu, khỏa lấp chỉ làm cho cá thể đó ngày càng tồi tệ
thêm, và do đó dân tộc của cá thể đó cứ mãi loanh quanh luẩn quẩn xa cái tầm của
sự tiến hóa!... Vì thế, con người không có ai là đúng hết cả, và nếu không nhầm, ta chỉ đúng
khi ta biết ta sai ở chỗ nào mà tránh bớt nó ra! Với mệnh đề này, dường như Trần
Khánh Dư là một ngoại lệ: Đã có một mối tình ‘thanh mai trúc mã’ với công chúa Thiên
Thụy bị ép hôn (hôn nhân chính trị, bị gả cho Trần Quốc Nghiễn, con cả của Hưng
đạo vương Trần Quốc Tuấn); tuy nhiên, việc lén lút ‘quan hệ’ trong cung cấm vào
thời đó (thời Trần, tk 13) gần như là bất khả, nhưng lại là ‘nghĩa tử cưng’ của
Trần Thánh Tông* và được vua ‘quá yêu tài’ mà phong làm Phiêu Kỵ đại tướng quân,
nên: 1) được tự do vào cung cấm, và 2) cũng do sự... ‘tiếp tay’ của Thiên Thụy!, mà môt vụ ‘tư thông’ đã diễn ra!...
Ngày
nay, ta nghe mang máng ở đâu đó, có ai đó viết một đoạn sex ‘thô tục’ về cuộc mây
mưa giữa danh tướng Trần Khánh Dư và công chúa Thiên Thụy*!, có ai đó nói ‘Lý
Thường Kiệt mang quân đánh Tống là hỗn’!, có ai đó muốn loại
câu nói ‘Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Nếu ngươi
dám đem một thước một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di’* ra khỏi sử Việt!, có ai đó đăng ‘ảnh xú’ của vua Quang
Trung giả do ‘bọn Càn Long’ vẽ!..., có ai đó nói ‘14 thế kỷ trước, Việt Nam thuộc
bộ phận phía bắc TQ. Sau này Việt Nam độc lập rồi tự thành lập quốc gia, nhưng vẫn
phụ thuộc và phải triều cống cho TQ’!, có ai đó nói rằng ‘ngày xưa Tôn Ngộ
Không bị nhốt ở Đà Nẵng*’ - ý nói đất TQ ngày xưa tới tận Đà Nẵng!, có ai đó
đang đề ra ‘Ngôn ngữ Cụk Cặk’ giống chữ bính âm của Tàu!, có ai đó đang đề ra
việc ‘tích hợp lịch sử’!..., mà nếu ‘link’ chúng lại với nhau thì ta sẽ thấy
chúng đều có ‘điểm chung’, nếu không muốn nói là có... ‘ý đồ’!
Nhưng
‘Tái Ông mất ngựa’!, xin... cám ơn những Bùi Việt Sỹ, ‘Đường Ham cô cô’, Nguyễn
Duy Chính, ‘Phá gió sư Cụk Cặk’, ‘Thích Tan Hoang’, ‘Vưỡn Văn Tho’, Xue Chun Zhe*,
những nhà-phản-Lê-Thánh-Tông, những nhà đòi ‘tích hợp lịch sử Việt’..., vì ai
đó càng... ‘nói xú’ sử Việt thì càng làm người Việt tò mò mà tìm hiểu sâu, rộng
thêm, kết quả là sử Việt ngày càng rõ đối với càng nhiều cư dân mạng và... ‘đám quần
chúng không biết gì’!, vd nhờ thế mà ta biết rõ thêm về ‘Ngô, Đinh, Lê, Lý,
Trần, Lê, Tây Sơn, Nguyễn’, đặc biệt là nhà Trần đã ‘đương đầu’, ‘cự tuyệt’ và ‘đề
phòng’ giặc phương Bắc như thế nào!,
cụ thể là danh tướng Trần Khánh Dư với trận
‘Hải chiến Vân Đồn’ đỉnh đỉnh đại danh (Hình 1)...
Xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của Dũng Phan.
---------
CHUYỆN
VỀ MỘT THIÊN TÀI QUÂN SỰ, MỘT “BADBOY” CỦA LỊCH SỬ: TRẦN KHÁNH DƯ.
Trần Khánh Dư, một bậc tài hoa nhưng không
hoàn hảo, một “cơn gió chướng” trong dòng chảy lịch sử Việt Nam với những phát
ngôn và hành động thô bỉ. Nhưng, là một người coi trọng tự do cá nhân trong
thời đại phong kiến, một người đạp bằng dư luận mà sống, một vị tướng thiên
tài, một quý tộc đặc sắc, và cả một sự cô đơn trong một mối tình oan nghiệt.
1. TÀI NĂNG, MỐI TÌNH VÀ "GIÓ CHƯỚNG
THỜI ĐẠI"
Người đàn ông ấy là một nhân vật “nửa chính
nửa tà”. Ông không phải là kiểu “yêu nước thương dân” như trong
tiểu thuyết, hoặc kiểu được xây dựng để “yêu nước thương dân”. Đại Việt Sử ký
Toàn thư có viết: "Khánh Dư tính tham lam, thô bỉ, những nơi ông ta trấn
nhậm, mọi người đều rất ghét. Nhân Tông chỉ tiếc ông có tài làm
tướng, nên không nỡ bỏ mà thôi". Trần Khánh Dư là một “badboy”. Cũng
giống như cách các anh chàng “badboy” thừa sự tự tin về tài năng, mang vẻ ngoài
và sự mạnh bạo của bản thân để quyến rũ các cô nàng. Khiến kẻ đối diện biết
rằng xấu, mà vẫn quyến luyến. Trần Khánh Dư cũng mang cái tố chất đặc biệt đó,
nhưng ở một tầm vóc vĩ mô. Từ “badboy” mà tôi dùng không hẳn là nói về cái quan
hệ nam nữ, mà là cái “badboy” đối với cả quân lính và người dân mà ông cai
quản. Trần Khánh Dư sở hữu một câu nói, mà có lẽ bây giờ có vị quan chức nào
phát biểu câu đó, hẳn phải viết đơn từ chức sớm. Đấy là câu "Tướng là chim
ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?". Nói
xong, liền đi thẳng về nhà vì sợ vua Trần Anh Tông gọi lại giáo huấn. Câu nói
đó ý tứ rất rõ ràng, và thậm chí là tàn bạo: kẻ làm tướng xem lính như vịt để
ăn và mổ. Thực ra chính điều này, lại giúp ông thắng được trận Vân Đồn. Vì sao
thì tôi sẽ nói ở phần sau bài viết. Tính cách và con
người Trần Khánh Dư cần phải đi sâu vào 2 câu chuyện:
+ Đầu tiên, là vụ án thông dâm của Trần
Khánh Dư và Thiên Thụy công chúa (mà gần đây giang hồ đang bức xúc cái tác phẩm
kia đấy, Hình 2). Thiên
Thụy là con gái của vua Trần Thánh Tông, nàng được gả cho Hưng Vũ vương Trần
Quốc Nghiễn. Nhưng Trần Khánh Dư và Thiên Thụy vẫn lén lút qua lại với nhau,
câu chuyện vỡ lỡ, Trần Khánh Dư bị phạt vì tội thông dâm. Vua Trần tuyên án tử
hình Trần Khánh Dư, sai quân lính dùng roi đánh kẻ phạm tội đến chết. Nhưng vì
quá yêu tài ông, vẫn lén dặn lính chúc gậy xuống để đánh 100 gậy. Mà theo luật
thời đó, quá 100 gậy sống thì trời tha. Vậy là Trần Khánh Dư sống.
Tuy nhiên hậu thế vẫn có thể nhìn theo một
góc khác. Nếu đi tìm lịch sử, bạn sẽ biết, Trần Khánh Dư đã quen với Thiên Thụy
trước đó khá lâu rồi. Ông “Thiên tử nghĩa nam” của vua Trần Thánh Tông, với vị
trí là “hoàng tử” (dù là con nuôi). Ông tự do đi vào cung cấm, chơi bời, và có
cơ hội gặp công chúa trưởng của cha nuôi mình là Thiên Thụy. Hai người yêu nhau
từ khi ấy. Nhưng rồi, Hưng Đạo Vương lại xin Thiên Thụy cho con trai Trần Quốc
Nghiễn. Vua Trần Thánh Tông để làm đẹp lòng Hưng Đạo Vương đã đồng ý cho Thiên
Thụy về Vạn Kiếp. Có nghĩa, mối tình niên thiếu của Thiên Thụy và Trần Khánh Dư
bị đứt đoạn vì một cuộc hôn nhân chính trị.
Trần Khánh Dư và Thiên Thụy vẫn quan hệ với
nhau khi Thiên Thụy đã về nhà chồng. Ồ, ngoại tình thì không có gì để bào chữa
nữa. Nhưng, hãy đặt vào trong hoàn cảnh của thế kỷ XIII khi ấy. Cái cách mà
Trần Khánh Dư đã làm với tình yêu bị đứt đoạn ấy, có đáng để trầm ngâm hay
không? Chúng ta đều biết trong thời đại phong kiến, tự do con người chỉ đẩy về
hàng thứ yếu, tình yêu chỉ là mộng ảo của cái thiếu niên, khi quyết định hôn
nhân đều bị hạ thấp dưới vấn đề quốc gia và dòng tộc. Thân phận nhi nữ được mặc định là quân cờ
trong ván bài chính trị của các phe phái, với các cuộc hôn nhân không có tình
yêu. Càng đặc biệt hơn khi đây là nhà Trần, với đặc thù về các cuộc hôn nhân
“cận huyết” để tránh vết xe đổ của Lý Chiêu Hoàng - Trần Cảnh lặp lại, thì nữ nhân lại càng giống như một món đồ nữa.
Trước Thiên Thụy công chúa có ai? Có Lý Chiêu Hoàng, có Thuận Thiên công chúa… đều là những phận đời long đong qua tay người đàn ông này đến người đàn
ông kia để phục vụ cho mục đích chính trị. Có nghĩa, Trần Khánh Dư đã đến với
Thiên Thụy công chúa trong hoàn cảnh bị cả xã hội nguyền rủa. Nhưng với tính
cách bạo liệt của mình, ông đã đến với Thiên Thụy cho bằng được. Trần Khánh Dư
đã đi ngược với thời đại, đạp lên những tôn ti thông thường, cười ngạo vào lễ
nghĩa, để tôn vinh lên tự do cá nhân của bản thân ông và tình yêu của ông. Trần
Khánh Dư - Thiên Thụy là ngoại tình, là thông dâm, nhưng còn là
bi kịch đoạn cuối cuộc đời trong cái lầm lỗi đi tìm tự do cá nhân (Hình 3).
+ Con người Trần Khánh Dư đi sớm hơn thời
đại.
Nước Việt Nam vốn hình thành từ một nền văn
minh lúa nước, nên văn hóa Việt Nam coi trọng nông nghiệp hơn là giao thương.
Sự hình thành của lịch sử với cách xếp hạng “sĩ nông công thương” mà thương xếp
cuối vẫn còn đến tận bây giờ. Nhưng Trần Khánh Dư chính là một vị tướng đã làm
thương nghiệp ngay từ khi nhà Trần chỉ mải miết coi trọng nông nghiệp. Trần Khánh
Dư khi bị xử tội sau vụ Thiên Thụy công chúa đã chèo thuyền đi… bán than. Ông
buôn bán, kiếm giá trị thặng dư. Và thậm chí trở thành một con buôn khi làm
chính trị. Khi ông được vua cho phục chức cũ, Trần Hưng Đạo với vị trí Quốc
công tiết chế, đã phong cho Trần Khánh Dư làm Phó tướng giữ Vân Đồn. Khi Khánh
Dư mới đến trấn giữ Vân Đồn, thấy tục ở đấy làm nghề buôn bán sinh nhai, ăn
uống, y phục đều trông vào khách buôn phương Bắc, cho nên quần áo đồ dùng theo
tục người Bắc. Khánh Dư liền điểm duyệt quân các trang, hạ lệnh rằng:
"Quân đóng ở Vân Đồn là để ngăn giữ giặc Hồ; nên không đội nón của phương
Bắc, trong khi vội vàng khó lòng phân biệt, nên đội nón Ma Lôi (Ma Lôi là tên
một hương ở Hồng Lô, làng này khéo nghề làm nón, nên lấy tên làng làm tên nón)
ai trái lệnh tất phải phạt". Lệnh đã hạ, sai người ngầm bảo người ở trong
rằng: "Hôm nọ thấy ở trước cảng, có người chở nón Ma Lôi đậu". Thế là
người trong trang nối gót nhau tranh mua nón, bắt đầu mua mỗi cái nón không quá
một tiền, đến sau giá cao bán một cái nón giá một tấm vải, thu được một lượng
vải đến hàng ngàn tấm.
Bạn biết mấy cái nón đó ở đâu mà có không?
Trần Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu ở
trong cảng rồi. Mấy cái thuyền, cái nón Ma Lôi đó đều là của đồng chí ấy cả.
Cái câu "Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh" (Gà chó Vân Đồn cũng đều
sợ) chính từ đó mà ra. Ngoài việc nói thác kính phục uy danh, nhưng thực ra có
ý mỉa mai về vụ buôn bán này đấy. Đây không khéo là
"Đầu cơ chính sách" của thời đại mới. Cho nên tôi luôn muốn các bạn
đừng nhìn Trần Khánh Dư theo một màu hồng. Thế vì sao cuối
cùng, ông vẫn là người được thờ cúng, chứ không phải là “chim ưng ăn vịt”? Bởi
vì trận đánh Vân Đồn. Trận đánh có tính bước ngoặt cho chiến thắng quân Nguyên
lần thứ 3.
2.
HẢI CHIẾN VÂN ĐỒN
Trận hải chiến này diễn ra trong “Kháng
chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3” vào năm 1288. Có lẽ đa phần trong chúng
ta đều được dạy rằng, chiến thắng quyết định là nằm ở trận Bạch Đằng 1288 do
Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lãnh đạo. Nhưng bây giờ tôi sẽ nói khác.
Đó phải là hải chiến Vân Đồn. Vì sao? Trận chiến Bạch Đằng 1288 và Trận chiến
Bạch Đằng 938 tuy đều dùng chung 1 phương pháp là đóng cọc nhọn khiến vỡ tan
thuyền giặc, đưa dòng sông này trở thành huyền thoại. Nhưng đã có một sự khác
biệt rất cơ bản mà nhiều người không để ý. 1/ Trận chiến năm 938 là Ngô Quyền chặn đánh thế tấn công
của giặc phương Bắc đang đánh thẳng vào Đại La. 2/ Trận chiến năm 1288 là Trần Hưng Đạo tiêu diệt đoàn
thuyền của giặc phương Bắc… đang rút chạy.
Đấy. Vấn đề là ở chỗ đó đấy! Một bên là
phòng thủ còn bên kia là rút chạy. Câu hỏi đặt ra, vì sao quân Nguyên lại rút
chạy để rồi rơi vào bẫy của Hưng Đạo Đại Vương? Câu trả
lời: vì Trần Khánh Dư đã đánh tan thuyền lương của Trương Văn Hổ ở trận hải
chiến Vân Đồn! Vậy thì trận đánh nào có tính bước ngoặt hơn? Chính là
trận hải chiến Vân Đồn. Nếu không có trận Vân Đồn, sẽ không
có trận Bạch Đằng. Nói nôm na, nếu ví Đại Việt và Đại Nguyên là hai đối thủ
trên sàn boxing, thì trận Vân Đồn là cú móc trái khiến quân Nguyên Mông tối tăm
mặt mày, còn trận Bạch Đằng là cú móc hàm khiến quân Nguyên Mông đổ gục toàn
bộ. Đấy, bạn đã hiểu vì sao hải chiến Vân Đồn và cái tên Trần Khánh Dư sống mãi
với non sông rồi đó! Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3, ông là nhân
vật chính. Xưa giờ, chúng ta đều xếp các trận hải chiến của Việt Nam thì Bạch
Đằng, Rạch Gầm Xoài Mút, hay Thi Nại… đều được xếp hàng đầu, ít nhiều đã quên
đi trận hải chiến Vân Đồn này. Do vậy, các bạn phải nhớ giá trị của chiến thắng
đó. Có 1 giá trị nhỏ: đây là trận đánh trên biển, còn đa phần chúng ta hay đánh
trên sông thời phong kiến.
Bây giờ, tôi sẽ sử dụng 3 tài liệu ở 3 cuốn
chính sử được ghi lại. Và từ 3 tài liệu này, tôi sẽ đi đến suy luận cho các bạn
về cách Khánh Dư dụng binh. Lịch sử là tư duy, không có học thuộc!
- Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ngày
30/12/1287, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi gồm 650 chiến thuyền đánh vào Vân Đồn.
Trần Khánh Dư chỉ có 100 chiến thuyền nên không chống đỡ nổi địch, thất bại
nhanh chóng. Tin đến tai triều đình, vua Trần sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải
về kinh. Khánh Dư nói: "Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin
khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn".
Vua Trần thấy được sự tự tin của Trần Khánh Dư, nên đã đồng ý cho Trần Khánh Dư
lập công chuộc tội. Vì lợi dụng được bọn nội gián, nên ông biết được con đường
tải lương của giặc. Ông lập tức thu thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu
thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương khí
giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều...”. Khâm Định Việt sử thông giám Cương Mục
thì chép: “Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền tải
lương tất đi theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát sau, quả
nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên bị thua
to...”. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết: “Ô Mã Nhi
đem thuyền đi đến ải Vân Đồn gặp quân của Trần Khánh Dư chặn đường không cho
đi. Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân
Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương... Được mấy hôm Ô Mã Nhi ra bể gặp
thuyền lương của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường, Trương
Văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau... Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào
cửa bể Lục Thủy Dương. Khánh Dư đổ quân ra đánh, Văn Hổ địch không nổi, bao
nhiêu thuyền lương bị quân Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất
nhiều...”. Rồi, cơ bản là các bạn nắm ý như thế. Diễn biến trong
chính sử cũng chỉ chép đến thế. Trần Khánh Dư thua Ô Mã Nhi và thắng Trương Văn
Hổ.
Vấn
đề là, mọi thứ có đơn giản như vậy không? Hãy quay lại tính
cách của Trần Khánh Dư mà tôi đã viết ở phần 1: "Tướng là chim ưng, dân
lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ?". Đi sâu vào cuộc
đời của Trần Khánh Dư, bạn có thể thấy, ông ta sẵn sàng “lợi dụng chức vụ và
quyền hạn để trục lợi” trên chính người lính của mình, điển hình là chuyện nón
Ma Lôi. Do đó, từ lời nói và hành động mà suy thì Trần Khánh Dư là người sẵn
sàng nướng quân vì mục đích cao hơn. Vị “Thiên tử nghĩa nam” này khác kiểu của
Trần Hưng Đạo - là người đặt lòng nhân cao hơn.
Trần Khánh Dư rất thô bạo, Đại Việt sử ký toàn thư thì dùng từ là “thô bỉ, tham
lam”. Đó là cái lưu ý thứ nhất: tính cách Trần Khánh Dư với
lính dưới quyền... Lưu ý thứ hai là gì? Trần Khánh Dư
là một con buôn. Mà đã là con buôn thì luôn cân nhắc về “lỗ” hay “lãi”. Ông rất
giỏi nghề kinh thương, khác với các vị tướng cùng thời đại, Trần Khánh Dư bán
than, bán mũ… kiếm giá trị thặng dư. Đặc thù suy nghĩ con buôn đó là: sẵn sàng
"lỗ đầu” để "lời đuôi ”... Lưu ý thứ ba là
gì? Tài năng cầm quân ra trận của Trần Khánh Dư. Trên lời đề tựa đầu cuốn “Vạn
kiếp bí truyền thư”, cuốn sách bày binh bố trận của Trần Hưng Đạo, có một câu:
“Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận. Người giỏi bày trận thì không cần
phải đánh. Người giỏi đánh thì không thua. Người giỏi thua thì không chết”.
Nghe như một câu nào đó trong Binh Pháp Tôn Tử, nghe như lời của Tào Tháo, của
Khổng Minh… trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Tưởng rằng chỉ có ở TQ, ở các pho sử của TQ. Không, đấy là câu nói tuyệt hay của Trần Khánh Dư. Ngẫm đi ngẫm lại,
chỉ có thể dành cho hai từ tuyệt diệu. Những chữ này, đáng để lưu danh thiên
cổ, để người Việt có thể nói chuyện và comment với nhau, chứ nào phải rơi rớt ở
đâu đó, và giờ ta phải đi nhặt lại, nhắc cho nhau cùng nhớ.
Và ta hãy lưu ý vào câu chốt “Người giỏi
thua thì không chết”. Trần Khánh Dư là người biết… cách thua. Vậy câu hỏi đặt
ra, Trần Khánh Dư có thật sự thua Ô Mã Nhi như chính sử đã chép? Hay là ông cố
tình thua? Trần Khánh Dư là tướng tài. Mà đã là tướng tài, thì nào lại không
hiểu cái bản chất cốt lõi của quân Nguyên Mông, đấy là vấn đề lương thực. Tôi
xin dừng tạm chỗ này, để trích lại khúc ca số 7 trong cuốn sách “Sử Việt - 12
khúc tráng ca” của tôi ngõ hầu giúp các bạn đi tiếp chuỗi suy luận này:
“Để miêu tả về sức mạnh quân Mông Cổ, một
nhà sử học thời Tống bên TQ đã viết: “Hoặc xa
hoặc gần, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc hợp lại hoặc tản ra, hoặc ẩn hoặc hiện, đến
thì như trên trời rơi xuống, đi thì nhanh như chớp giật. Kẻ địch chia ra thì họ
chia ra, kẻ địch hợp lại thì họ hợp lại. Họ mà thắng thì đuổi theo quân địch
chém giết, không để trốn thoát. Họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không
kịp.” Đoạn miêu tả ấn tượng ấy giúp ta thấy sức mạnh khủng khiếp của binh đoàn
này, nhưng đây là điểm mạnh mà cũng là điểm yếu của quân lính Mông Cổ. Chính vì
sống trên lưng ngựa, đánh thắng trên lưng ngựa nên ngựa trở thành điểm chính
yếu cho sự tồn tại của kỵ binh. Tốc độ hành quân quá nhanh dẫn đến lương thảo
thường không theo kịp, quân sĩ bởi vậy thường mang theo lượng lương thảo tinh
giảm và gọn nhẹ nhất, chủ yếu sẽ là “tự cung tự cấp”, chém giết các điểm đến để
lấy thức ăn cho người và ngựa. Sinh thời, Thành Cát Tư Hãn cũng đã từng nói:
“Phải chinh phạt kẻ thù, phải bắt kịp kẻ thù, phải cướp bóc tài sản của bọn
chúng…”. Nhưng nếu không có gì để mà cướp thì sao? “Vườn không
nhà trống” của Đại Việt chính là lời hồi đáp cho câu hỏi đó. Việc này khiến
quân thiết kỵ Mông Cổ chưng hửng. Cướp phá chẳng được gì, lương thực thì cạn
kiệt. Đến một thời điểm nhất định, chỉ cần dùng đại quân đã được ém kỹ, lấy sức
nhàn đánh quân mệt, nổ một phát sấm sét là coi như thành công.”
Có nghĩa, điểm mạnh của quân Nguyên Mông là
tốc độ, còn điểm yếu là lương thực. Vì vậy nên Trần Thủ Độ và Trần Hưng Đạo đã
áp dụng chiến lược "vườn không nhà trống” mà thắng lợi ở lần 1 và lần 2.
Thua lần 1 và lần 2 cùng một lý do, thì cớ gì quân Nguyên Mông không biết rút
kinh nghiệm trong lần đánh Đại Việt thứ 3 (minh chứng ở chuyện, Thoát Hoan đã
cho đoàn thuyền chở nhiều lương thực sang hỗ trợ). Nếu quân Nguyên Mông biết
rút kinh nghiệm, thì cớ gì Trần Khánh Dư lại không biết mà tấn công vào đó? Tức
là Trần Khánh Dư đánh Trương Văn Hổ (người chở lương) là chính, chứ đâu phải
đánh Ô Mã Nhi (người chở lính) là chính? Bởi thử tưởng tượng cái cảnh Thoát
Hoan có lương thực ở Thăng Long. Đại Việt chỉ có gục! Nếu không biết cái cốt
lõi đó, thì Trần Khánh Dư đâu phải là tướng tài? Và nếu như trong chính sử viết
Trần Khánh Dư thua là thua, sau đó bị ép mà thắng. Vậy e rằng đó chỉ là miêu tả
một người “khốn cùng liều thân” để chuộc tội, chứ không phải miêu tả tướng tài
rồi ! Tuy nhiên chính sử đã cài cắm một ý rất tuyệt ở đây “Lấy quân pháp mà xử,
tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày, để mưu lập công rồi về chịu tội
búa rìu cũng chưa muộn“. Thường thì quan niệm cũ “quân xử thần tử thần bất tử
bất trung”. Nhưng tại sao Trần Khánh Dư lại có thể điều đình được như vậy? Và
còn nữa, vì sao vị trung sứ đưa lệnh triệu hồi về triều của Thượng hoàng Thánh
Tông lại có thể im lặng và đồng ý? “Thiên tử nghĩa nam” làm gì mà to hơn “Thiên
tử”?
Có nghĩa tất cả quan quân nhà Trần đều tin
có bước thứ 2 trong kế hoạch đó. Nhắc lại 3 lưu ý: 1/ Trần Khánh Dư là một đại tướng không xót mạng binh lính. 2/ Trần Khánh Dư là con buôn, mà con buôn thì chẳng bao giờ đi buôn lỗ
vốn. 3/ Trần Khánh Dư là tướng tài. Kết hợp cả 3 yếu tố này lại, ta có gì đây? Trần Khánh Dư đã “nướng
quân” lần 1 với Ô Mã Nhi, tất cả để dồn chủ lực mà tiêu diệt Trương Văn Hổ.
3.
HẢI CHIẾN VÂN ĐỒN THẬT SỰ SẼ RA SAO?
Theo tư duy và góc nhìn của tôi, trận chiến
đó phải diễn ra như thế này:
Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi gồm 650 chiến
thuyền đánh vào Vân Đồn, dọn đường cho đoàn thuyền chở lương của Trương Văn Hổ
vào Đại Việt. Trần Khánh Dư sai 100 chiến thuyền với đa số quân già yếu ra cự
địch, thất bại nhanh chóng. Quân Đại Việt thiệt hại nặng, chết rất nhiều, binh
sĩ tử trận. Ô Mã Nhi thắng trận lớn, ông ta tin rằng chủ lực phòng ngự Đại Việt
đã tan tành. Ô Mã Nhi theo thói quen, liền hành quân thần tốc, tiến nhanh vào
Đại Việt để lập công đầu. Vị tướng nhà Nguyên sau khi thắng Trần Khánh Dư đã
mang niềm tin rằng con đường chở lương đã được ông ta dọn dẹp thông thoáng, và
Trương Văn Hổ sẽ thoải mái đi vào mà chẳng ai ngăn trở, qua đó sẽ cung cấp
lương thực cho Thoát Hoan tại Thăng Long, tránh tình trạng đói khổ, bệnh tật
như những lần trước. Nhưng Ô Mã Nhi không ngờ rằng, Trần Khánh Dư đã nướng quân
của mình trong đợt đầu (đấy là "bỏ vốn" làm ăn) để khiến Ô Mã Nhi
nhầm tưởng rằng ông ta đã thắng hết quân Đại Việt. Thực tế, quân chủ lực của
Trần Khánh Dư chưa ra trận, mà đã được ém sẵn xung quanh biển Vân Đồn để đánh
vào mục tiêu chính, cái mục tiêu đã giúp Đại Việt giữ được bờ cõi suốt hai lần
xâm lăng trước: LƯƠNG THỰC (đấy là "lãi").
Cùng thời điểm, Trương Văn Hổ nhận được tin
tình báo từ Ô Mã Nhi về chiến thắng, và con đường thông thoáng đã được mở ra,
liền thong thả hành quân vào Vân Đồn như chốn không người, chẳng ai phòng thủ.
Mà không biết rằng, ông ta đang hành quân vào cõi chết. Khi quân Trương Văn Hổ
đi vào trận địa phục kích, Trần Khánh Dư liền phất cờ cho quân chủ lực 4 mặt ào
ra đánh. Hãy tưởng tượng tình cảnh Trương Văn Hổ khi đó. Thuyền lương thì chậm
chạp, hành quân thì sơ sài, phòng bị thì không có. Sự bất ngờ, không phòng bị,
cùng vấn đề của quân yếu đánh với quân mạnh, Trương Văn Hổ chỉ có bại, tuyệt
không có thắng. Khi ông ta đã đối diện với quân chủ lực chính thức của Trần
Khánh Dư giờ mới ra trận. Còn quân chủ lực của quân Nguyên thì đã theo Ô Mã Nhi
đi vào sâu trong nội địa Đại Việt (vì tưởng đã thắng) rồi.
Đấy, chính là toàn cảnh của trận chiến Vân
Đồn. Ở đây Trần Khánh Dư đã thắng ở chiến lược lớn là “rút
củi đáy nồi*”, tức đánh vào trọng tâm của giặc là lương thực, còn thực hiện mưu
kế “vứt gạch lấy vàng”. Lúc này ở đất liền, Thoát Hoan một
mình trong Thăng Long không có lương thực. Quân lính đói rét, bệnh tật, thủy
thổ không hợp. Cùng thời điểm, Trần Hưng Đạo tấn công lại các vùng bị chiếm,
Thoát Hoan lại phải rút chạy. Nói không ngoa, một trận Vân Đồn (Hình 4),
đã khiến gió đổi chiều trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3.
4. CÂU CHUYỆN CUỐI ĐỜI
Để tưởng nhớ và ghi nhận công lao to lớn
của Trần Khánh Dư. Ở đảo Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), người dân lập đền thờ
Trần Khánh Dư, họ tôn ông làm Thành hoàng và thờ tự tại đình Quan Lạn. Hàng
năm, người dân trong vùng tổ chức lễ hội Quan Lạn vào trung tuần tháng 6 âm
lịch để tưởng nhớ công lao của ông, cùng các tướng sĩ đã làm nên trận hải chiến
oanh liệt. Ngoài đền ông, còn có đền thờ 3 vị tướng họ Phạm - phó tướng của
Trần Khánh Dư trong trận hải chiến Vân Đồn, đấy là Phạm Công Chính, Phạm Quý
Công và Phạm Thuần Dụng. Những người đã hy sinh anh dũng trong trận đánh này.
Đã phục kế nấp thuyền trong sương mù để tiêu diệt đoàn quân của Trương Văn Hổ. Vân
Đồn cũng như Phú Quốc, được chính phủ cơ cấu thành “đặc khu kinh tế”, khi ấy
chắc chắn lượng khách thập phương sẽ đổ đến nhiều, các bạn - những người đang
đọc bài viết này, rồi cũng sẽ có cơ hội đến đó. Nếu có dịp ghé thăm Vân Đồn,
các bạn nhớ thắp hương cho vị tướng tài Trần Khánh Dư. Người mà 700 năm trước,
đã tạo bước ngoặt quan trọng cho chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3, và giữ
nên bờ cõi Đại Việt còn mãi đến hôm nay.
Năm 1323, tức 35 năm sau chiến thắng quân
Nguyên Mông lần thứ 3. Trần Khánh Dư xin về trí sĩ. Ở những năm cuối đời, ông
đã góp phần khai khẩn nên hai xã Yên Nhân và Yên Đồng, của huyện Ý Yên (Nam
Định) ngày nay. Tạo nên đóng góp lớn nhất của ông trong thời bình.
Lời kết:
Năm 1340, Trần Khánh Dư mất. Khép lại chặng
đời của một vị tướng thật đặc biệt trong lịch sử thời đại phong kiến của Việt
Nam. Một vị tướng trên tầm thời đại về kinh doanh, về tự do con người. Ông đã
sống bằng cái chất ngạo nghễ ít ai bằng, đạp trên thói đời của thiên hạ ít. Ông
phá đảo những tàn tích cũ kỹ. Chuyện mình, mình làm, không quan tâm đến những
gì sau lưng. Cuộc đời ông có sai, có đúng, có bi kịch, có vinh quang, nhưng ông
đã không hổ thẹn một kiếp người. Khi khép lại tất cả, ông là vị tướng đã tạo
nên công tích còn mãi đến ngàn thu, nhưng cũng đã để lại một câu nói và hành
động tàn bạo với người dưới quyền, cùng kiểu đánh "nhất tướng công thành
vạn cốt khô".
Nguồn: https://www.facebook.com/T.h.u.q.u.a.n.579/posts/240513003179534?hc_location=ufi
***
Tôi có thể nói gì thêm? Trần Khánh Dư (Hình 5) đã góp phần quan trọng vào một trong
những đánh giá hiện nay: ‘Trong suốt chiều dài lịch sử, TQ chưa hề được biết tới
là một cường quốc hải quân*, chưa từng ghi điểm trong một trận hải chiến nào
trước các đối thủ xứng tầm, bởi thế mới thất thủ trước các pháo hạm của phương
Tây vào cuối thế kỷ 19, chịu thua trước hải quân Nhật Bản trong cuộc chiến năm
Giáp Ngọ (1894), lại tiếp tục chịu trận trước ba tàu sân bay Nhật vây hãm
Thượng Hải suốt thập niên 1930, bó tay trước các tàu sân bay Mỹ giải nguy Nam
Hàn trong cuộc chiến Triều Tiên...’ (baomoi-com)...
Ngoài
ra, lưu ý rằng một vị tướng ‘nửa chính nửa tà’ mà được ‘cả 3 vua qua 3 thời’ - Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông - đều quý trọng thì ắt hẳn vị tướng
đó phải rất là đặc biệt trong lịch sử!
H...ết!
---------
Chú dẫn:
1. Đoạn sex thô
tục về cuộc mây mưa giữa danh tướng Trần Khánh Dư và công
chúa Thiên Thụy, xem thêm:
http://nhagomlabang.blogspot.com/2018/04/1002-tran-khanh-du-va-ten-bui-viet-sy.html
2. ‘Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của
Thái tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di’ (Lê Thánh
Tông, Đại Việt Sử Ký Toàn
Thư), xem thêm:
https://baomoi.com/khong-duoc-de-mat-mot-thuoc-nui-mot-tac-song/c/14475085.epi
3. ‘Ngày xưa Tôn Ngộ Không bị nhốt ở Đà Nẵng’! (Võ Văn Thương):
Ngũ Hành Sơn được nhắc đến trong tác phẩm 'Tây du ký' của Ngô Thừa Ân là
một dãy núi ở TQ, còn gọi là Vương Mẫu Sơn, Nữ Oa Sơn… do truyền thuyết ‘Tây
Vương Mẫu thông thường được hình dung là một bà già hiền lành, sống ở tại núi
'CÔN LÔN'… Dãy Côn Lôn chạy theo hướng Tây-Đông, tạo thành ranh giới phía bắc
của cao nguyên Tây Tạng và rìa phía Nam của lòng chảo Tarim, sa mạc khét
tiếng Takla Makan và sa mạc Gobi… (wikipedia)..., xem thêm:
http://nhagomlabang.blogspot.com/2017/07/966-ton-ngo-khong-bi-nhot-o-nang-hahaha.html
4.
‘Nghĩa tử cưng của Trần Thánh Tông’: Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư..., nhưng lúc đó ông 17 tuổi (1257), bằng
tuổi Trần Thánh Tông!, nên phải là
‘của Trần Thái Tông' mới đúng! (wiki)
5.
Rút củi đáy nồi (Phủ để trừu tân): Một kế trong ‘Tam thập lục kế’, là đánh
tiêu hao hậu cần để làm quân địch dần phải thua. (wiki)
6.
Trần
Thánh Tông (1240-1290) là vị hoàng đế thứ hai của vương triều
Trần nước Đại Việt, trị vì 1258-1278... Trong thời kỳ cầm quyền của mình, ...về đối
ngoại, Thánh Tông phải ĐƯƠNG ĐẦU với tham vọng bành trướng của đế quốc Nguyên-Mông cường
thịnh ở phương Bắc. Ông đã thực thi một chính sách ngoại giao mềm mỏng với nhà
Nguyên, nhưng CỰ TUYỆT mọi
yêu sách của vua Nguyên... Ngoài
ra Thánh Tông cũng chỉnh đốn quân đội để ĐỀ PHÒNG sự xâm lược của người Nguyên. Năm 1278, Thánh Tông nhường ngôi cho Trần
Nhân Tông... Cùng với vua Nhân
Tông và Trần Hưng Đạo, thượng hoàng Thánh Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt
đánh bại hai cuộc xâm lược của Nguyên-Mông năm 1285 và 1287... (wiki)
7. ‘Trong suốt
chiều dài lịch sử, TQ chưa hề được biết tới là một cường quốc hải quân...’, xem
thêm: https://baomoi.com/bien-dong-va-canh-mot-minh-mot-cho/c/25872314.epi
8. ‘VN vẫn phụ thuộc và phải triều cống cho
TQ’ (HDV Du lịch Tàu Xue
Chun Zhe), xem thêm:
http://nhagomlabang.blogspot.com/2018/03/1082-noi-gi-voi-hdv-du-lich-tau-thu-gian.html
Trần Minh Châu (FB)
Trả lờiXóaTẩy chay tác phẩm "dâm" này
7 tuần
Fbker Thanh Thủy (bên dưới) nói 'tác phẩm "dâm" này' là của nhà văng... Bùi Liệt Sỹ đóa, ha..ha.ha...
XóaTrần Minh Châu
XóaĐúng đó anh
Hat Cat Diệu Sinh (FB)
Trả lờiXóaBÀI VIẾT RẤT TUYỆT VỀ Trần Khánh Dư và những nhận định xác đáng về con người và sự nghiệp cũng như tài năng KHÁC LẠ nổi bật của ông
Lão bà bà đọc một mạch. Cám ơn nhiều, Nhà Gom Lá Bàng à
6 tuần
Uh, tôi cũng không ngờ có tay bút Dũng Phan viết (phân tích lịch sử) hay ghê!, cũng... tương đương Vu Gia (ở Đà Nẵng!) hay Nguyễn Mộng Giác! (Sông Côn mùa lũ), Ngô Thế Vinh (Mekong cạn dòng, Biển Đông dậy sóng), v..v... Thank sư thái!
XóaThanh Thủy (FB)
Trả lờiXóaCảm ơn huynh Nhà Gom Lá Bàng và cảm ơn tác giả Dũng Phan rất nhiều đã có bài viết, phân tích rất hay để giúp người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật lịch sử Trần Khánh Dư. Vô cùng khâm phục tài năng và thương lắm chuyện tình trắc trở của ông .
Đọc bài này cảm thấy tự hào và hãnh diện hơn với lịch sử nước nhà càng ngưỡng mộ những anh hùng dân tộc! Đấy! đã viết về lịch sử thì phải viết như tác giả Dũng Phan vậy chứ viết như thằng cha Bùi ‘Liệt Sĩ’ thì thiệt rẻ tiền, sét siết... tào lao.
7 tuần
'Đấy! đã viết về lịch sử thì phải viết như tác giả Dũng Phan vậy chứ viết như thằng cha Bùi ‘Liệt Sĩ’ thì thiệt rẻ tiền, sét siết... tào lao': hehe, tán thưởng... danh hiệu mới... phong cho 'Bùi Liệt Sĩ'!... Thank Thanh Thủy nhìu!
XóaPhạm Hiền (FB)
Trả lờiXóaKhoái câu này. "Vì thế, con người không có ai là đúng hết cả, và nếu không nhầm, ta chỉ đúng khi ta biết ta sai ở chỗ nào mà tránh bớt nó ra!". Ôi giá như cái thằng viết truyện Sex nó biết nhỉ?
7 tuần
'Ôi giá như cái thằng viết truyện Sex nó biết nhỉ?': có người phong cho 'thằng' đó là Bùi Liệt Sỹ đấy, ha..ha..ha... Thank anh!
XóaPhạm Hiền
XóaHắn có tên trong gia phả của Bùi Hiền khg vậy? NGLB kiểm tra lại xem
Bùi Việt Sỹ: Là hậu duệ cụ Hoàng giáp Bùi Huy Bích... Sau khi có công tích thời kỳ thanh niên xung phong ông có thể theo học ngành Giao thông vận tải để có thể đã trở thành quan chức của ngành này như đa số bạn bè đồng ngũ; nhưng Bùi Việt Sỹ trót đã mang gen nghệ sỹ trong người bỏ ngang đi làm báo. Đó là một nhầm lẫn của cả thế hệ tôi cứ tưởng văn học với báo chí là một. Báo chí là một nghề cần sự căn cơ chính xác và trực diện; dân nghệ sỹ lạc vào đấy không bị bật bãi là may mong gì hiển đạt. Mãi năm gần bốn mươi Sỹ mới được cử đi học Đại học ở Liên Xô cũ; đó là những năm xứ sở này "Perestroika" (Cải tổ)... (theo waka-vn)
XóaPhạm Hiền
XóaÔI TRỜI, CON CHÁU DANH GIA VỌNG TỘC MÀ NHƯ VẬY Ư? CHÁN THẬT. Ông Nguyên tổ họ tôi chỉ là một chức quan chức nhỏ ở Hà Tiên thôi (Cai đội Thủy Quân). Nhưng con cháu sau này mà muốn o e gì bá láp một chút là giật mình ngay.
Lienlien Tran (FB)
Trả lờiXóaChỉ biết đọc xong thấy... Hì hì. Thích thui. Nhà Gom Lá Bàng
7 tuần
Uh, Dũng Phan viết rất hay, đọc hoài vẫn thik! Thanh... muội!
Xóa