Thứ Năm, 17 tháng 9, 2020

1321. Nhà văn kiếm hiệp Hoàng Ly và... trà Việt ngon hơn trà Tàu! (Thư giãn)

Mới đây, tôi có được một người cháu tặng cho một bịch ‘trà Tuyết’ - một đặc sản của Hà Giang... Ngoài ra, nó còn có tên gọi là ‘trà San Tuyết’ (cổ thụ Hà Giang)*, ‘trà Tuyết suối Giàng’ (Yên Bái)..., mọc ở độ cao khoảng 2000m (vùng núi Phìn Hồ/Hoàng Su Phì, Cao Bồ, Lũng Phìn...), có tuổi đời từ 200-300 năm, do đó số lượng cây trà cổ thụ này ở Tây Bắc VN không nhiều, đơn vị tính chỉ (vài) ‘trăm cây’, nên được xếp vào loại ‘cây di sản của Việt Nam’...

Tuy không có ‘Diệp sương liên’ hay ‘Diệp thủy tiên dạ vũ’ (hạt sương khuya trên lá sen), nhưng khi pha xong, tôi thấy nước trà Tuyết có màu ‘vàng-xanh’ hơn tí, màu nâu (màu trà) nhạt hơn tí, uống thấy thơm hơn tí, thấm lâu trong cổ họng hơn tí, nói chung là thấy ‘êm’ và ‘phê’ hơn, nếu so với trà Thái Nguyên, hehe... Vì không phải là ‘nhà trà đạo’ như... Đoàn Dự, nhưng tôi biết là ‘trà Tuyết’ là của hiếm và quý, mà cái gì đã ‘hiếm và quý thì thường rất đắt’, nên thường chỉ dùng cho mấy ông/bà có ‘tiền nhiều... để làm gì?’ (hehe), quả vậy, nó đắt gấp 3-4 lần trà Thái: nếu trà Thái giá dao động từ 20-40.000đ/lạng, thì trà Tuyết giá 80-100.000đ/lạng hoặc hơn...

Vài năm trước, tôi có ghé chùa Bát Nhã (Bảo Lộc, xứ trà, có liên quan đến ‘vụ ông Thích Nhất Hạnh’...), ở đây có một nhà máy sản xuất ‘trà Ô Long’. Hỏi ra tôi mới biết là người Đài Loan rất thích uống trà Ô Long, nên phải qua VN sản xuất (có liên quan đến ‘vụ một nữ giám đốc VN bị chết bên Đài Loan cách đây mấy năm’!), rồi nhập về Đài Loan. Cho nên khi nói về ‘trà Ô Long’* thì chớ vội cho nó chỉ là ‘trà Tàu’!...

 

Về ‘trà Tuyết’, nhà văn kiếm hiệp Hoàng Ly trong cuốn ‘Lửa hận rừng xanh’ đã tả (H.1):

...Cô gái cười khanh khách, cầm bình trà cùng bọn gái hầu uyển chuyển bước ra. Đám thị nữ khác cũng vừa mang hỏa lò tới. Cô gái xua tay cười bảo:

- Thôi! Bỏ chuyện nghi nan áy náy đi. Tiên sinh! Ta uống trà cho vui. Đời người nhiều oan trái. Gặp gỡ bất ngờ ngàn năm dễ lấy gì mua nổi.
Minh Thần nghe nàng nói, bỗng nhiên lòng cảm động lạ. Bề ngoài coi tươi tỉnh, cứ nghe khẩu khí, cô gái này chẳng phải gái quý tộc chỉ quen vui hưởng đời sống cơm bưng nước rót, ra giày vào dép, nàng vẫn còn có tâm hồn vô cùng phong phú, tế nhị, thiên về đời sống tinh thần và hình như còn một tâm sự u uẩn mang mang, thật khó hiểu.
Có điều kỳ khôi nhất là chỉ một câu nàng vừa nói, tự dưng chàng trai thấy hết nghi ngờ, sinh vững dạ hơn, mặc dù chưa rõ nàng là hạng gái nào. Tần ngần ngồi ngắm nàng quạt hỏa lò than nấu nước và các "đồ nghề", rõ ràng nàng ta đã quen sinh hoạt lối người Kinh và rất sành "điệu nghệ" uống trà của giới phong lưu ẩm giả dưới xuôi, có thể nói đã thông thạo "trà đạo".
Ấm thuộc loại "Cò bay" có "kim hỏa " để tính độ nước sôi "mắt tép, mắt cua"; bộ đồ trà nàng vừa đem ra thuộc loại cổ, khay khảm ấm chén đều cổ, bốn cái chén trôn quýt, một cái chén tống, thứ nào cũng đặt trên đĩa cổ, vào bộ, có mảnh vải điều phủ; ấm có ba cái, một cái độc ẩm bé như ngón chân cái, một song ẩm và một quần ẩm, gọi là quần ẩm nhưng cũng chỉ vài ba ẩm giả vậy thôi; đặc biệt cả ba đều thuộc bộ "Ngọc phủ" màu chu sa đỏ thắm như vành môi nữ chủ.
“Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần” (Đức Bội là Thế Đức, Lưu Bội). Liếc sang bàn nước, bình trà, chàng trai nghĩ thầm:
- Bàn nước kia là "Diệp sương liên", "Diệp thủy tiên dạ vũ", trước tôn sư vẫn dùng, sau trận mưa đêm, lá sen sạch sẽ tinh khiết còn đọng lại vài giọt nước mùi hoa lá, sáng sớm chèo thuyền ra hứng từng giọt nước sau cơn mưa đêm, gọi "Diệp thủy tiên dạ vũ" hoặc với những giọt sương đêm còn đọng trên lá sen gọi "Diệp sương liên", tay ẩm giả ít khi vớt sương đọng trên cánh, đài sen, sợ mùi vị sen thơm quá "giết chết" hương trà. Món này, trước mình vẫn phải đi vớt về dâng tôn sư uống trà sớm. Nhưng con "Phi Mã trà" chẳng hiểu trà gì? Thường nghe người ta nói "Trảm mã trà" cho ngựa đói ăn trà ướt, chặt cổ mổ bụng lấy trà pha uống, trà ướp thêm "chất trong bụng ngựa" uống vào tuyệt ngon, thiên hạ đồn Tây Thái Hậu hay dùng như món óc khỉ, chuột sâm bao tử. Nhưng quả mình chưa nghe nói "Phi Mã trà" bao giờ.
Tuy nghĩ vẩn vơ, nhưng chưa tiện hỏi, và vừa khi có nước sôi, cô gái lấy trà pha, đưa khách chén "tống khẩu", cười bảo:
- Tiên sinh uống thử coi thứ trà này ngon chăng? Từ trước, thiên hạ vẫn ca tụng trà hái trên ngọn Vũ Di Sơn*, tôi cũng đã uống được đúng thứ trà khỉ hái trên ngọn đỉnh. Nhưng tôi lại thấy THUA thứ trà "Phi Mã" này. Do chuyện tình cờ, một bữa tôi cùng phụ thân lên rặng Pi A Ya chơi, có đem theo mấy con vượn lớn rất khéo. Đàn vượn leo lên ngọn Phi Mã cao hơn 2000 thước, kiếm trái ăn và bứt xuống một cây trà rất lạ. Thân bằng cổ chân, lại thấp lùn chỉ sáu, bảy chục phân, cành cũng to, sù sì, coi như loại cây cảnh có những chiếc lá, búp nhỏ bằng nửa trà thường. Bèn hãm sống uống thử, thấy ngon, đem sao ướp, uống vào tuyệt hảo. Có lẽ đất xứ ta vốn trồng trà rất ngon, thứ thượng sơn trà này mọc đỉnh núi đã lâu nên hấp thụ được lắm màu mỡ, khí trời cao sơn nên mới NGON HƠN trà Vũ Di bên đất Quý Châu.
Thầy trò Minh Thần uống thử, quả thấy ngon đậm lạ thường, không sai lời nàng nói. Lúc này Quản Kình cũng đã yên trí đôi chút, cùng ngồi uống. Chủ khách uống trà đàm đạo rất tương đắc...

https://truyen24.com/lua-han-rung-xanh/chuong-11-cung-a-phong-duoi-day-hac-giang/

 

Ở Việt Nam có các nhà văn kiếm hiệp đỉnh đỉnh đại danh như Hoàng Ly* hay Ưu Đàm Hoa (rất được các Việt kiều ở hải ngoại yêu thích)... Nhưng rất tiếc, rất nhiều người Việt chỉ sính của... Lạ (Tàu, nếu không muốn nói là thuộc ‘thế lực thờ Tàu’), nên di sản của ông cha ta để lại chả mấy ai đoái hoài, thậm chí chả có một cuốn phim kiếm hiệp VN (của các nhà văn VN), mà chỉ thấy trên VTV, truyền hình cáp hay youtube... toàn là phim kiếm hiệp... Tàu!, rồi dân xứ Đông Lào... xuất tinh, à quên, xuất khẩu ra ngoài toàn là những anh hùng hay người đẹp... Tàu như Dương Quá-Tiểu Long Nữ, Hoàng Dược Sư, Hồng Thất Công, Lệnh Hồ Xung-Doanh Doanh, Quách Tĩnh-Hoàng Dung, Sở Lưu Hương, Tây Môn Xuy Tuyết, Tiêu Phong, Tiểu Lý Phi Đao hay Trương Vô Kỵ-Triệu Minh..., ôi, nhụt ơi là nhụt!




Thật vậy, với thể loại ‘Truyện đường rừng’ và là kẻ ‘Một thời ngang dọc’, Hoàng Ly của Việt Nam cũng quá rành mấy thứ như ăn cắp đạo (Đạo soái, Diệu thủ thư sinh...), ăn chơi đạo, ăn uống đạo (ẩm thực...), bài bạc đạo (đỗ thần, thần bài...), ca-ve đạo, chém gió đạo, chơi hoa đạo, chơi gái đạo (Thái hoa đạo tặc...), cờ đạo (kỳ thánh...), đánh đàn đạo (cầm thánh...), đường phố đạo, đường rừng đạo, giang hồ đạo, kiếm đạo, thịt chó đạo, trà đạo, tu đạo (H.2), tửu đạo hay võ đạo..., cần qué gì phải... ngâm cứu Kim Dung!

Thật vậy, nếu Tàu có Côn Lôn Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Nga Mi Sơn hay Tung Sơn gì gì đó... thì Việt Nam có Thập vạn đại sơn, Cầu Mây, Thác Bạc Đầu, hồ Ba Bể... Nếu Tàu có ‘Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái’ thì Việt Nam có ‘Nam Thánh, Bắc Thần, Đông Quân, Tây Quỷ’ (Việt Nam tứ bá), ‘Nam Khấp, Tây Gầm, Đông Âm, Bắc Tiếu’ (Việt Nam tứ hung) hay ‘Đông Tửu, Tây Sắc, Bắc Yên, Nam Đổ’ (Việt Nam tứ khoái), chưa kể những ‘cao thủ đệ nhất’ như Nùng Trí Cao, Bế Nghê (Lê Văn Khôi), Thoòng Mềnh, Voòng Lầu...: Mèo nào cắn mỉu nào?

...Cũng xin nói thêm, việc đặt tên hay dùng thành ngữ hơi bị ‘Hán-Việt’ của các nhà văn-tiền bối như ‘Võ Minh Thần’, ‘Đại Hồng Bào, Vũ Di Sơn’, ‘Diệp sương liên/Diệp thủy tiên dạ vũ’ hay ‘Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần’... làm cho thế hệ sau (rất) khó hiểu... Chẳng hạn như người H’Mông hay người Mèo... ở Tây Bắc thường có tên như ‘Thoòng Mềnh’, ‘Voòng Lầu’, ‘Vàng Dúng Lùng’, ‘Vàng Seo Lữ’ hay ‘Vừ A Dính’... đã bị phiên âm sang họ Tàu là ‘Hoàng’ hay ‘Vương’, hahaha... Chính tôi cũng không hiểu ‘Thứ nhất Ngọc Phủ chu sa, thứ nhì Đức Bội, thứ ba Mạnh Thần’ là gì?, hehe... Còn các tên gọi như ‘Đại Hồng Bào, Vũ Di Sơn’ (dùng trong tác phẩm của Hoàng Ly) không phải là của Việt Nam, mà có từ thời Khang Hi*, xem dưới...

Còn ‘Đại Hồng Bào’? Cũng họ ‘Ô Long’, còn được gọi là trà ‘Thiết Quan Âm’ hay ‘Đại Hồng Bào’ - nói về cái ‘ngon’ của ‘Đông Phương Mỹ Nhân... Tàu’, do đó có mấy bà bán trà người Việt không hiểu tại sao ‘Đông Phương Mỹ Nhân... Tàu’ lại là ‘Ô Long’?..., nhưng nhờ hiểu ‘ô’ trong ‘ngựa ô’ có nghĩa là đen, nên mấy bả kết luận là ‘đại mỹ nhân Tàu’ có... lông đen (H.3, đùa thôi), rồi thắc mắc với mấy ông... VTV:

-Lông của mỹ nhân Tàu chắc gì đã... đen hơn mỹ nhân Việt!

 

H...ết.

---------

*Chú dẫn:

1.       Nhà văn Hoàng Ly, cha tôi, tên thật ĐỖ HỒNG NGHI, sinh năm 1915 tại Quần Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định... Bút pháp của ông... nhìn chung (theo chủ quan của tôi) là “mạnh và hấp dẫn hơn”. Một Thời Ngang Dọc, Nữ Tướng Biên Thùy, Người Đẹp Liễu Thôn… là những tiểu thuyết lần lượt đăng trên các báo, thu hút nhiều người đọc bởi các hình tượng nhân vật “anh hùng lạc thảo”, “nữ chúa rừng xanh” vung gươm múa sung trừ gian diệt bạo - đặc biệt là trừ bọn Việt gian làm tay sai cho ngoại bang... Có lẽ không quá đáng khi nói rằng, kể từ truyện “Một thời ngang dọc” ông bắt đầu hình thành một loại “tân phái võ hiệp Việt Nam”, như một số người nhận xét. Trong đó ngoài “chất liệu truyền thống” của thể loại truyện võ hiệp quen thuộc là võ thuật, ông còn đưa vào cả “những thành tựu kỹ thuật cơ giới” như súng ống đủ loại, chiến xa, chiến hạm… Nhân vật không chỉ giỏi võ mà còn bắn súng ngắn “tắt đom đóm trong đêm tối”, hay rót đại pháo, moóc-chê “năm phát như một không cần làm phép tính lôi thôi”... Vào thời điểm gần cuối thập niên 60 bước sang 70... là những truyện Giặc Cái, Quỷ Cái, Gái bán trời, Gái giặc biển, Giặc tình, Giặc tầu ô, Gió tử thần… Bên cạnh những truyện võ hiệp Việt Nam đó, từ đầu những năm 60 cha tôi cũng viết nhiều truyện dị thường, truyện liêu trai đường rừng, hay gọi nôm na là “truyện ma” Ma Cà Rồng, Quỷ Nhập Tràng… Năm 1972 cha tôi có cho xuất bản mấy tập truyện ngắn khổ handbook là Biên Giới Quỷ, Người đẹp tha ma treo… Cha tôi qua đời ngày 8/11/1981 tại nhà vì bệnh già... (Hoàng Linh, trưởng nam, tangthuvien-vn)

2.       ‘Trà Đại Hồng Bào’ danh tiếng của tỉnh Phúc Kiến cũng có một giai thoại. Thời vua Khang Hy nhà Thanh có một học trò nghèo lên kinh ứng thí; sau khi vượt ngọn núi Vũ Di Sơn thì đói và mệt ngất xỉu. May nhờ có một vị sư đi ngang cho uống một thứ nước nên chàng sĩ tử này khỏe lại. Kỳ thi đó chàng thi đậu và được bổ làm quan. Nhớ nghĩa cũ chàng về nơi thọ nạn tìm kiếm nhà sư đó. Trong câu chuyện tạ ơn, chàng được biết đã được cứu mạng nhờ một loại trà. Xin được một ít, chàng hồi kinh nhậm chức và tiến vua lá trà đó. Đúng dịp đó hoàng thái hậu lâm bệnh nặng, các ngự y đều bó tay. Vua cho dùng thử lá trà đó thì thấy hiệu nghiệm và bệnh tình dần dần bình phục. Vua cảm kích ban thưởng cho một chiếc áo bào đỏ và từ đó trà này mang tên Đại Hồng Bào (Chiếc Áo Đỏ). Trong câu chuyện này có nhắc đến núi Vũ Di Sơn; và tên núi này cũng là một giai thoại. Vũ và Di là tên hai anh em bỏ hết cả gia tài để đi tìm và thửong thức trà quý. Hai anh em này vào vùng núi này tìm trà và tìm ra loại trà độc đáo sau này được vua Minh tặng cho Hồng Bào như đã kể ở trên. Sau để nhớ công người ta gọi núi này là núi Vũ Di’ (khanhhoathuynga-wordpress)...

3.       Trà Ô Long của Việt Nam: Tỉnh Lâm Đồng được biết đến là vùng trà rộng lớn và cho sản lượng trà cao nhất cả nước. Đây cũng là vùng sản xuất ra trà Ô Long ngon nhất Việt Nam, đặc biệt với những đồn điền trồng trà rộng lớn ở thôn Cầu Đất và thành phố Bảo Lộc. Nằm ở độ cao trên 900m so với mực nước biển, khí hậu mát mẻ quanh năm nên Bảo Lộc trở thành mảnh đất trù phú và phù hợp cho việc trồng trà... (traviet-com)

4.       Truyền thuyết về ‘Trà San Tuyết’: Từ rất lâu, một vùng đất hoang sơ được bao phủ bởi mây mù quanh năm. Vào một ngày sớm, một nàng tiên nữ đã đến đây và gieo một loại hạt xuống vùng đất này. Chẳng bao lâu sau, những hạt ấy nẩy mầm và mọc thành cây xanh tốt, tán cây ngày càng rộng, lá cây xanh ngắt to bằng nửa bàn tay còn búp cây ngậm sương trắng như tuyết. Khi ấy có một nhóm người H’Mong di cư đến đây, do loạn lạc đường xa, thiếu đồ ăn thức uống lại bị bệnh sốt rét hoành hành. Họ thấy cây xanh tốt lại mọc giữa chốn non cao liền hái lá cây ăn và kì lạ thay, sau khi ăn xong họ thấy tỉnh táo lạ thường. Thấy vậy, họ liền lấy lá cây đun với nước suối uống. Ngày này qua ngày khác, chẳng mấy mà tất thảy mọi người đều hết sốt và khỏe khoắn trở lại. Cho là có trời cứu giúp, mọi người quyết định ở lại đây với loài cây lạ và đặt tên nơi này là “Suối Giàng” tức là "suối của trời"... (wiki)

*Bài đọc thêm về ‘nhà văn kiếm hiệp Hoàng Ly’ (H.4):

Không nghi ngờ gì nữa, Hoàng Ly là một tác giả kiếm hiệp độc đáo và xuất sắc nhất của Việt Nam! Ông sáng tạo ra một thế giới kiếm hiệp mới của Ta, ma quái và hấp dẫn, khác hẳn kiếm hiệp Tây Tầu. Theo lối pre 75, truyện của ông sẽ có cái hiệu đại khái như sau: Phiêu-lưu ma-quái đường-rừng phong-tục võ-hiệp kỳ-tình trường-thiên tiểu thuyết… Nhưng có lẽ, do viết theo dạng phô-ơi-tông (feuilleton: tiểu thuyết đăng trên báo) quá nhiều, mà trong hệ liệt Thập vạn đại sơn vương, chùm tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, cũng có đôi chút sự bất hợp lý…
Là vậy đi, từ Một thời ngang dọc, bộ đầu tiên của hệ liệt cho đến Lửa hận rừng xanh (bộ gần cuối), là các câu chuyện diễn ra trong quãng thời gian chàng Hồng Lĩnh từ khoảng 20 tuổi cho đến lúc - chắc quãng 35-36 tuổi; tức là diễn ra trong vòng, cứ cho là gần hai chục năm đi. Phần một - Một thời ngang dọc, mô tả về thời “tiền khởi nghĩa” của Hồng Lĩnh, cho đến lúc… tìn được một nửa bức họa đồ Phù thủy thần thơ - bí mật về kho tàng của Tôn Thất Thuyết. Phần 2 - Giặc Cái, là câu chuyện về Trại Phan An Lê Thái Dũng với mối thù với con quỷ truyền kiếp. Phần này câu chuyện cũng chưa kết thúc (theo các bộ sách đã được in ra); Lê Thái Dũng chưa trả được thù, Hồng Lĩnh chưa tìm được trọn kho báu, thậm chí còn chưa cưới được vợ… Phần 3 - Lửa hận rừng xanh, là câu chuyện về Võ Minh Thần với mối thù bi thảm. Có thể coi là phần chốt của hệ liệt. Như đã nói trên, do hụt mất một phần chuyển tiếp, đến phần này Hồng Lĩnh đã tìm được kho báu, gây dựng lực lượng hùng hậu, và đã có con trai (quãng 5 tuổi), và trong câu chuyện có nhắc đến cái kết của phần 2. Mỗi phần là một câu chuyện riêng rẽ, nhưng vẫn có một “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, ấy là hình tượng chúa tướng Thập vạn đại sơn Bắc thần lạc thảo Trương Hồng Lĩnh. Trong vòng quãng hai chục năm, trong một bối cảnh miền biên giới Tây Bắc không lấy gì rộng lớn lắm, mà giới giang hồ qua ngòi bút Hoàng Ly mô tả thay đổi khủng khiếp: nếu như tại phần 1, giới này chỉ là các băng đảng cát cứ tại địa phương như Thập vạn đại sơn, Cầu Mây, Thác Bạc đầu, hồ Ba Bể... Các hảo hán cưỡi ngựa bắn súng đánh võ cổ truyền thì đến phần 2, giới giang hồ đã phân chia phương vị Nam thánh Bắc thần Đông quân Tây quỷ, võ công đã có đến chưởng lực kiếm khí, ngay cả Thoòng Mềnh, Voòng Lầu thủ hạ Hồng Lĩnh cũng được nâng cấp võ công lên tầm cao mới. Đến phần 3 thì càng kinh khiếp hơn nữa, các phương vị võ lâm đã thay đổi hoàn toàn, bao gồm tứ hung: Nam Khấp Tây Gầm Đông Âm Bắc Tiếu và tứ khoái: Đông Tửu Tây Sắc Bắc Yên Nam Đổ… Các nhân vật này mặc dù rất ghê gớm, nhưng hoàn toàn không xuất hiện trong các phần trước (?). Về yếu tố “chưởng”, “kinh dị” hay “kỳ tình” thì đây cũng là phần kinh khủng nhất: Kiếm khí, chưởng lực, hộ thân cương khí, thần tiên, ma quỷ, trận pháp, bói toán cờ bạc, âm nhạc, nghiện hút, rượu chè, vân vân đều được đẩy lên đến đỉnh cao, phô diễn trí tưởng tượng và vốn hiểu biết kinh người của Hoàng Ly… Nhưng về mặt thời gian mà nói thì rõ ra là có những sự vô lý nhất định, ví dụ như Tây Sắc chẳng hạn, trước khi xảy ra câu chuyện tại Lửa hận khoảng hai chục năm chắc chắn đã phải có mặt, và đã là một thế lực rồi, ấy thế mà tại phần 1, 2 không thấy đả động gì, các nhân vật phương vị võ lâm nêu trên cũng thế,… do như đã nói trên, các câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian không quá dài và một bối cảnh không quá rộng. Nhưng thế thì cũng chẳng sao cả, không vì thế mà truyện của Hoàng Ly không hấp dẫn, mà trái lại, có lẽ vì nó hấp dẫn quá nên đôi lúc độc giả cũng quên đi sự bất hợp lý này. Thật tiếc là đến tận bây giờ với tôi hệ liệt này vẫn chỉ là một câu chuyện chưa hoàn chỉnh… Mọi việc vẫn là “Thiên hạ đổ máu tìm họa đồ ráp lại, ai cũng chỉ đoán đó là mảnh họa đồ ghi nơi chôn bảo vật vô song. Và suốt trăm năm, chưa kẻ nào cầm nổi lấy nửa phần chìa khóa bí mật trong tay. Cho mãi tới ngày Thần Xạ Đại Sơn Vương từ miền Thập Vạn Đại Sơn, một mình một ngựa, vượt cỏ phân mao về đất Việt..." (Minh Tử Xuân!, Lời mở đầu! cho cuốn ‘Thập Vạn Đại Sơn Vương')

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét