Trên
mạng có người hỏi: ‘Tại sao bóng đá (U23VN), người dân đi bão cả chục triệu
người, còn vụ ‘Biển Đông’ (rộng hơn là nguy cơ mất nước!) lại không... đi bão?’...
Lại có người hỏi một cách khó chịu (và tỏ ra tự cao tự đại, thiếu hiểu biết và
không... đúng tí nào!): ‘Mấy người đã làm gì cho xã hội/tổ quốc mà nói cái này
cái nọ?’... Tôi có ‘đi bão’ trên đường đi, vd trong trận chung kết ‘VN vs
Uzbekistan’ ở Thường Châu vào tháng 1/2018, hay trận chung kết ‘VN vs Malaysia’
ở Mỹ Đình vào tháng 12/2018, nhưng nếu nói đi bão vì ‘Biển Đông’ thì có rất nhiều
hình thức, trong đó ‘xuống đường’ chỉ là một... Và tại sao ở trên tôi nói là ‘tỏ
ra tự cao tự đại, thiếu hiểu biết và không đúng tí nào’?, bởi vì, vd như, anh
làm ‘tốt’ nhiệm vụ của một công dân như không tung hê ‘biệt thự’, không muôn
năm ông ‘Bự Thiệt’, không đồng ý vụ ‘Vong Cao Tốc’ (xem bài trước)... thì đó là
có làm gì cho xã hội rồi đấy, còn làm lớn như ông #, ông Quan Ngại, hay ông Tan
Thành C... gì gì đó chưa chắc là đã đem lại lợi ích cho xã hội, mà có thể hoàn
toàn ngược lại!... Còn tôi?, ‘Chủ đề, chủ yếu vẫn là vì 'người Việt' và 'nước
Việt ĐỘC LẬP’...
Về
lịch sử VN, có vài điều rất đáng kinh ngạc là... 1) Thường, ‘sử gia Tây’ am hiểu
sử Việt hơn ta và thậm chí giỏi hơn ta! Thật vậy, chắc các bạn biết Trường Viễn
Đông Bác Cổ (L ' École française d'Extrême-Orient) tại Hà Nội hay ‘tương đương’
bên Pháp... thường là ‘thầy’ và là nơi đào tạo ra các nhà nghiên cứu sử học (xuất
sắc) của nước ta... Và thật vậy, đọc ‘bình luận chính trị’ của Carl Thayer*,
tôi thấy Carl Thayer viết ‘hay hơn’ và ‘thoáng hơn’ người Việt khi viết về cùng
một đề tài; tại sao?, tại vì ta thường ‘hẹp’ hơn, không biết ‘đứng trên vai những
người khổng lồ’, hay lấy việc ‘đả kích’ đối thủ làm chính, hết lý đến luận, tuy
có thể cao thâm nhưng suy cho cùng cũng là lý luận lòng vòng, bế tắc!, trong khi
Carl Thayer sống trong một thế giới ‘rộng’ hơn, hay nói một cách mới hơn là ông
sống trong một thế giới ‘phẳng’ hơn!... 2) Đa số các ‘sử gia Tây’ đều cho rằng
dân tộc Việt là dân tộc ‘tự có’ ở VN (ý nói không xuất khẩu từ Tàu), nước VN là
một nước ‘độc lập’ với Tàu, và đã ‘có sẵn’ ít nhất là từ 3000 năm về trước;
trong khi đó, mười người gần hết chín sử gia ta lại nói ngược lại, vd như nói
‘dân Việt được nhập khẩu từ Tàu’ hay cứ lải nhải mãi ‘bài ca không quên’ là ‘nước
Việt là một trong Bách Việt và cũng của... Tàu'!... Tại sao vậy? Tôi đã có nói
là nhiều học giả/trí thức Việt hay có quán tính là ‘quá’ ôm cái ‘sở đắc’ của
mình đến nỗi ‘lệ thuộc’, như LTKM, Phật-Thiền, ‘kiến thức Lạ’..., vd như vụ ‘cục
đại’ và ‘ế thức hị’ hay mới đây vụ ‘dâng sao giải hạn’ và ‘mời Vong về giải
oán’ là các minh họa..., nhưng ‘Tây’ không có vậy!... 3) Việc ‘học tiếng Hán có
làm trong sáng tiếng Việt ít, nhưng làm ‘trong tối’ tiếng Việt là nhiều hơn’,
như trong các trích dẫn dưới đây...
Và
dần sẽ dẫn đến tác phẩm ‘The Birth of Vietnam - Nguồn gốc của nước Việt’ của Sử
gia Mỹ là Keith Weller
Taylor.
*
Các
nhà ‘dịch thuật’ nói về Cuốn sách The
Birth of Vietnam (HÌNH 1):
-
Khẳng định TÍNH BẢN
ĐỊA VÀ LIÊN TỤC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM qua các giai đoạn văn hóa khảo cổ học phát
hiện trên đất nước Việt Nam. Trước khi người Tàu đến, dân tộc Việt Nam đã có tổ
chức quốc gia và có một nền văn hóa riêng biệt..., cuốn sách The Birth of Vietnam ra đời đã
nhận được sự chú ý của nhiều người đọc quan tâm đến lịch sử. Ở Việt Nam cuốn
sách được tặng Giải thưởng của Quỹ Phan Châu Trinh của giới học giả nghiên cứu ở
Đà Nẵng cùng với nhiều lời tán thưởng nồng nhiệt từ độc giả trong và ngoài nước...
(Thiếu Khanh, ‘Lời giới thiệu’ sách Taylor!)
- Lịch sử Việt Nam
thời kỳ dựng nước thường được các sử gia Trung Hoa và phương Tây xem như một phần
của lịch sử Trung Quốc nhưng với Keith Weller Taylor thì khác, tác giả xem 12
thế kỷ này “là quá trình dựng nước của Việt Nam...”, “từ cội nguồn, NGƯỜI VIỆT
NAM TIN CHẮC RẰNG HỌ KHÔNG PHẢI, VÀ KHÔNG MUỐN LÀ NGƯỜI TRUNG HOA”. Cuốn Việt Nam thời kỳ dựng nước (The Birth of Vietnam) đề cập đến lịch
sử Việt Nam từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thời kỳ hình thành nhà nước độc
lập (thế kỷ X). Đây là công trình có tầm ảnh hưởng lớn trong giới sử học phương
Tây... (Trần Hạnh Minh Phương, người dịch sách Taylor)
- Cả KHÁI NIỆM “BÁCH
VIỆT” DO NGƯỜI HÁN TẠO RA ĐỂ ÁP ĐẶT/NÔ DỊCH tinh thần những cộng đồng dân cư
khác Hán ở Phương Nam, đến đây cũng đã bị loại thải. Cái quan niệm của chủ
nghĩa huyết thống tập thể, rằng “tất cả những người có cùng quốc tịch (bất kể
thuộc về dân tộc nào) đều là những người cùng huyết thống, là cùng một bọc sinh
ra, là đồng bào, anh em cốt nhục”..., đến đây, cũng đã được cho vào quên lãng.
Ông viết rằng: “Nhu cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ xa xăm là
nỗ lực nhận thức chung của nhiều dân tộc ở mọi thời điểm và mọi không gian...
Nhưng nhu cầu bức thiết kết nối với quá khứ đó chỉ là một ham muốn chứng thực tự
thân, chứ không phải là nỗ lực học thuật” (Taylor). Ông cũng nói rõ rằng, những gì mà các sử
thần thời Trần và Lê sơ đã làm khi biên soạn những bộ sử đầu tiên của người Việt
là CẮT DÁN, LẮP GHÉP CÁC NGUỒN TƯ LIỆU HÁN VĂN văn cho phù hợp với sự tưởng tượng
về quá khứ và tổ tiên của mình, nhằm tạo ra lịch sử của phương Nam trong thế đối
chọi với lịch sử của phương Bắc. Sử Tàu dài bao nhiêu sử Việt nhiều từng ấy, họ
có gì thì ta có đó. Với cách làm như vậy, phần lớn sử thần Nho gia thời trung đại
(VN) đã MẮC BẪY các sử thần Nho gia Trung Hoa... (tiasang-com-vn), v..v...
*
Rất
thường đúng nhưng không luôn luôn đúng khi nói về khái niệm ‘dân tộc Việt và nước
Việt Nam độc lập gần như theo mọi nghĩa’, và sâu xa hơn Trần Trọng Kim: ‘Quyền chính trị của
các "vua" Hùng thì cha truyền con nối, gọi là phụ đạo" cũng là nói theo lời của các sử gia Tàu BỊA ĐẶT, chớ thời bấy
giờ dân tộc Việt còn ở chế độ mẫu hệ!... Những cuộc nổi dậy do phụ nữ lãnh đạo
như ta đã thấy... Không những đến đầu Công nguyên, cuộc khởi nghĩa của hai bà
Trưng vẫn mang đậm màu sắc và tinh thần mẫu hệ’ (Các nguồn tư liệu TQ nói rõ Thi Sách phục tùng sự lãnh đạo của vợ), GS
K.W. Taylor cho rằng...
-
LẠC (trong Lạc Việt) ‘là một âm khác của từ Lạch hay Rạch, tức
các kênh mương nhỏ dẫn nước (vào ruộng)...’ (Taylor dẫn từ nghiên cứu của học
giả người Nhật Gotō Kimpei),
- ‘VN ít
nhất cho đến tk 3SCN’ THEO CHẾ ĐỘ MẪU HỆ VÀ THỜ MẪU: Ban đầu lịch sử, ta thấy nổi
lên những ‘bà’ như Bà Trưng, Bà Triệu...: ‘Xã hội Việt Nam thời
thượng cổ có thể là không phải chịu sự kiểm soát của phụ nữ, nhưng rõ ràng là
phụ nữ có các quyền thừa kế cho phép họ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo chính trị...
Trong xã hội Lạc người phụ nữ có vị thế
tương đối cao. Như chúng ta sẽ thấy, khi các hào trưởng Lạc nổi lên chống lại ảnh
hưởng ngày càng nặng nề của TQ, các cuộc nổi dậy của họ đều do phụ nữ lãnh đạo...
(Và) cho đến thế kỷ đầu Công nguyên, 'tinh thần mẫu hệ của thời này còn được xác nhận mạnh mẽ hơn nữa với sự
kiện là mộ và đền thờ của thân mẫu bà Trưng Trắc vẫn còn đó mà tuyệt không thấy
có di tích gì cả của phụ thân bà...’ (Taylor),
- HÙNG VƯƠNG không có nghĩa là vua Hùng, mà ‘từ Hùng có nguồn gốc từ một danh hiệu của người
THỦ LĨNH (bộ
lạc) đến nay vẫn còn tồn tại trong ngôn
ngữ của các dân tộc nói tiếng Môn-Khmer sống tại các vùng núi ở Đông Nam Á, cũng như trong tiếng Mường, thứ ngôn ngữ miền
trung du gần gũi chị em với tiếng Việt’ (Taylor)... Còn ‘Vương 1) là một từ thuộc ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), là từ "thuần Việt",
chớ nó không phải là "tiếng Hán". Chữ "Vương" gồm ba vạch
ngang song song (三) hội ý tượng
trưng tam tài Thiên - Địa - Nhân, và một vạch dọc ở giữa nối liền ba gạch
ngang ( 王 ). Vậy Vương ngụ
ý là người liên kết con người với trời đất... của nền văn minh nông nghiệp...,
chớ không phải người cai trị chính trị (vua)... 2) là ‘già làng’
(trong già làng, trưởng bản), rộng hơn là thầy mo/PHÁP SƯ của một bộ lạc/nước:
‘Vào thời Chu Trang Vương (696 - 682 trước CN) ở Gia Ninh có một dị nhân dùng
pháp thuật thu phục tất cả các bộ lạc. Ông tự xưng là Hùng Vương’ (Việt Sử Lược)... HÙNG VƯƠNG CHỈ CÓ NGHĨA NÔM NA LÀ VỊ ĐẠI PHÁP SƯ hoặc vị PHÁP
SƯ TRƯỞNG của quốc gia, với tất cả sự thiêng liêng và tôn nghiêm, có thể có cả
sự huyền bí nữa’ (Thiếu Khanh)...
- Và do đó, BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG trong đó đại vương không phải là ông vua lớn...
‘Bố là cha... Cái là một từ cổ trong tiếng Việt có nghĩa "chính", "to lớn", "quan trọng", "đứng đầu"..., ví dụ sông cái, đường cái, ngón
tay cái, thợ cái (thợ cái là người đứng
đầu trong nhóm thợ) (André-Georges Haudricourt, nhà nhân chủng học và ngôn ngữ học Trường Viễn Đông Bác Cổ)... Bố Cái Đại Vương nay thường được hiểu
là ‘cha già dân tộc’ tức là vị lãnh tụ mà xứng đáng để được người dân ngưỡng mộ,
yêu quý...
-
Dưới thời ‘Hùng Vương’ vì ‘VN’ không phải là một nhà nước chính quy’ mà chỉ có
‘truyền thống vương quyền (local tradition of kingship, hay ‘nối lại quốc thống’
- Thiếu Khanh) nên
KHÔNG CÓ CÁC LẠC HẦU VÀ LẠC TƯỚNG là các chức danh mà sử Tàu khi nói về các cuộc
chiến tranh ‘Trung-Việt’ thời Tần-Hán đều không hề nhắc đến (chỉ ghi chép là
‘Quan Lang’, ‘Mỵ Nương’, ‘Bồ Chính’...), và họ cũng chả bao giờ nói có quân Tàu
giao chiến với Lạc Hầu/Lạc Tướng nào của ‘VN’!..., mà chỉ có từ ‘Lạc Lords’ tức
chúa ruộng đất, hay ‘hào trưởng’ Lạc - một từ hay dùng để nói về Lê Lợi...
(Taylor),
-
NGƯỜI VIỆT KHÔNG
PHẢI GỐC TÀU: ‘Nếu dân tộc Việt Nam chỉ mới hình thành từ khi nhà Hán sang cai
trị cổ Việt, thì trước đó đất cổ Việt đã có ai đâu? Dân Hán chưa di cư đến thì
họ sang cai trị ai? Còn nếu trước nhà Hán đã có dân Tàu di cư tới ở đông đúc đợi
người Hán sang cai trị, thì đất đó là của nhà Hán, sao người Hán lại sang chinh
phục đô hộ đồng bào mình và lại gọi đó là đất cổ Việt, dân Cổ Việt?... Ngay từ
thế kỷ đầu Công Nguyên, hai bà Trưng đã "tách ra" để xưng vương rồi
đó. Nếu hai Bà Trưng cũng là dân Tàu di cư sao hai bà lại nói người Tàu xâm lược
mình và chống lại họ cho tới chết? Sau hai Bà Trưng, những cuộc nổi dậy lớn nhỏ
chống lại Trung Hoa xâm lược không ngớt xảy ra luôn trong mười thế kỷ. Không có
một cuộc nổi dậy nào được sử sách chép là người Tàu đòi ly khai cả! Ngay cổ thư
Tàu cũng không sách nào nói thế... (Thiếu Khanh, gt sách Taylor),
- ‘Trận đánh trên sông Bạch Đằng và sự nổi lên của Ngô Quyền là một sự kiện cực kỳ lớn lao gây rúng động cả dân tộc. Từ đây họ có thể tưởng tượng được một vị vua Việt Nam của mình’, tác giả đã ghi một nhận định bình thường nhưng từ đó chúng ta có thể hiểu ra một điều quan trọng mà cho đến nay dường như chưa một sử gia nào gợi ý: ‘Ngô Quyền đặt việc xưng vương của mình vào TRUYỀN THỐNG VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐẤT NƯỚC... Ngô Quyền củng cố việc xưng vương của mình với sự tôn trọng phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị...’ (Taylor), v..v...
- ‘Trận đánh trên sông Bạch Đằng và sự nổi lên của Ngô Quyền là một sự kiện cực kỳ lớn lao gây rúng động cả dân tộc. Từ đây họ có thể tưởng tượng được một vị vua Việt Nam của mình’, tác giả đã ghi một nhận định bình thường nhưng từ đó chúng ta có thể hiểu ra một điều quan trọng mà cho đến nay dường như chưa một sử gia nào gợi ý: ‘Ngô Quyền đặt việc xưng vương của mình vào TRUYỀN THỐNG VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐẤT NƯỚC... Ngô Quyền củng cố việc xưng vương của mình với sự tôn trọng phù hợp với quan niệm của người dân bản địa về quyền lực chính trị...’ (Taylor), v..v...
*
Những cái trên là
tư liệu ‘mạnh’ và có thể gây tranh cãi, tuy nhiên dưới đây là những triết lý ‘hay’
của Taylor.
- Lãnh tụ mà chống
‘quân xâm lược bành trướng dã man’ ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ CAO HƠN HOÀNG ĐẾ: ‘Các sử gia Việt Nam về sau ghi nhận Triệu Đà
là một vị vua đã chống lại quân TQ xâm lược để bảo toàn lãnh thổ. Ông được tôn
thờ tại nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam... Và việc ông nắm giữ cái móng của thần Kim Quy
biểu thị sự hợp thức của ông trong tâm trí của người Việt Nam, và giải thích uy thế của ông cao hơn An Dương Vương... Triệu Đà ở giai đoạn đầu của lịch
sử Việt Nam, như một phần của lịch sử dân tộc Việt, có phần nào gián tiếp gợi lại
đại mộng oai hùng của vị hoàng đế bách thắng Quang Trung, người từng buộc Tổng
đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị phải mở đường thoát thân qua ngõ... ống đồng! (HÌNH 2). Dường
như chưa một sử gia Việt Nam nào ngừng lại ở chỗ này để ngẫm nghĩ...’ (Taylor)
- Các nghiên cứu mới đây về nhân chủng học vật
lý cho thấy một sự liên tục đặc biệt trong tiến hóa về mặt chủng tộc của người
miền bắc Việt Nam từ thời kỳ tiền sử xa xưa nhất cho đến hiện tại. Một sự liên
kết chủng tộc rõ rệt từ kỷ nguyên này đến kỷ nguyên khác đã gạt bỏ bất cứ [giả
thuyết về] một cuộc di dân ồ ạt đột
xuất nào đủ lớn để coi đó là nguồn gốc của một dân tộc...
- Những biến cố này (thời Tần-Hán...) không làm
xáo trộn cuộc sống của người dân, và vị thế của các hào trưởng Lạc vẫn không
thay đổi... Trong thời gian này
phần lớn các hào trưởng Lạc vẫn còn giữ vững đất đai và kiểm soát được dân
chúng của họ... Di dân người Hán vào Việt Nam không quá đông đảo với số lượng
tràn ngập. Điều này được thấy rõ trong một nghiên cứu về các thống kê dân số,
chỉ ra rằng không hề có một sự thay đổi bất thường nào về dân số ở miền Bắc Việt
Nam trong thời nhà Hán... Và tuy người dân bản địa lệ thuộc thế giới của đế quyền phương Bắc, nhưng họ là sản phẩm của một nền
văn hóa phương Nam... Sau một
hay nhiều thế hệ cư trú ở Việt Nam, các di dân TQ, bất kể ngoài mặt họ tỏ ra
trung thành với các lý tưởng thiên triều TQ, họ không thể nào không chịu ảnh hưởng
từ các giá trị và kiểu thức của xã hội Việt Nam, v..v...
Lời bình: Tuyệt!
***
Đặc biệt xuất sắc,
K.M. Taylor cho rằng Việt Nam và Trung Quốc KHÔNG CÓ VỤ ‘VĂN HÓA TƯƠNG ĐỒNG’ (như
trong ’16 chữ... vàng’)..., điều đó cũng giải thích rất logic cho câu hỏi ‘Tại
sao dân tộc VN bị Tàu đô hộ cả ngàn năm mà vẫn không bị đồng hóa?’:
- Dường như có đủ di dân [người Hán] để lập nên một tầng lớp thuộc giai cấp cai trị Hán-Việt cấu kết nhau, nhưng không đủ nhiều để có thể thống trị xã hội người bản địa về mặt hành chánh và văn hóa Việc khai hóa [tức là đồng hóa] người phương nam (người Việt) gần như là VÔ VỌNG... Tính ô hợp của các nhóm dân tộc khác nhau đủ để làm nản lòng hầu hết các nhà cai trị... Ngôn ngữ của người Việt Nam vẫn tồn tại, và có thể nói mà không sợ sai lầm rằng sau thế hệ đầu hay thế hệ thứ hai người Hán đã nói tiếng Việt. Xã hội Việt Nam như một toàn thể vẫn tách biệt với nền văn minh Trung Quốc, và xã hội Hán Việt tồn tại như một cánh (wing) của thế giới văn hóa độc lập này. Di dân người Hán bị Việt Nam hóa dễ hơn là người Việt bị Hán hóa... Dù chịu sự kiểm tra và đánh thuế từ các quan lại Tàu, người Việt Nam vẫn giữ nguyên bản chất của mình. Họ không bao giờ để mất ngôn ngữ mẹ đẻ với những cảm xúc và tư tưởng riêng biệt của dân tộc hàm chứa trong ngôn ngữ ấy. Họ không bao giờ mất niềm tin vào quá khứ và di sản của dân tộc trong quá khứ...
Và ‘Xã hội Việt Nam thường trái ngược với các giá trị của xã hội TQ... Việt Nam tiếp nhận văn minh TQ mà không làm mất bản tính của mình... Phong tục không đồng nhất, và ngôn ngữ thì không hiểu nhau, phải cần đến nhiều lượt người thông dịch mới giao tiếp với nhau được...’ (Taylor)
Rõ ràng rằng ‘Vong Tàu’ đối với người Việt
là một ‘dị vật’ - như răng của ta bị ‘ám’ bởi một cục xương Lạ màu... vàng khè
và... thúi hoắc vậy! (HÌNH 3)..., vì ông Taylor cho rằng văn hóa Việt Nam và Trung Quốc
không có ‘tương đồng’ cái con khỉ mẹ gì hết!, hahaha...
H...ết.
---------
Chú dẫn:
1. Nhà bình luận
chính trị Carl Thayer (sinh 1945) là nhà nghiên cứu khoa học xã hội nổi tiếng,
có hai quốc tịch Mỹ và Úc. Ông được biết đến trên phạm vi quốc tế qua các nghiên cứu
và xuất bản phẩm viết về chính trị Việt Nam và các vấn đề an
ninh Đông Nam Á... (wiki)
2.
LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI KỲ DỰNG NƯỚC TỪ MỘT NGHIÊN CỨU CỦA SỬ
GIA NGƯỜI MỸ - KEITH WELLER TAYLOR (Bài giới thiệu sách Birth of Vietnam, TS.
Trần Hạnh Minh Phương, Trường Đại học Thủ Dầu Một), xem tại:
http://www.sugia.vn//assets/file/kien-thuc-lich-su/Bai_gioi_thieu_sach_The_Birth_of_VietNam_-_Minh_PH.pdf
3.
The Birth of Vietnam (Keith Weller Taylor , bản tiếng
Anh), xem tại: https://books.google.com.vn/books?id=rCl_02LnNVIC&printsec=frontcover&hl=vi#v=onepage&q&f=false
4.
The Birth of Vietnam - DỊCH VÀ NGẪM NGHĨ (Thay lời dịch giả,
Thiếu Khanh), xem tại:
http://chimviet.free.fr/vanhoc/thieukhanh/thkhanhn_DichVaNgamNghi_a.htm
5. Sử gia Keith
Weller Taylor (sinh 1946) được coi là một trong những nhà Việt Nam học ngoại quốc
nổi tiếng nhất ở Việt Nam cũng như trong giới học thuật quốc tế. Thường thì, một
học giả nghiên cứu về Việt Nam hoặc chỉ có thể thành danh trong nước, hoặc ngược
lại, chỉ được học giới nước ngoài tán dương, bởi sự chênh lệch giữa các lề thói
làm việc. Nhưng, K.W. Taylor lại được cả hai... (tiasang-com-vn)
Bài viết rất hay.
Trả lờiXóahttps://www.nguoiduatin.vn/dieu-tri-hieu-qua-benh-phu-khoa-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-a373132.html
https://www.24h.com.vn/tin-tuc-suc-khoe/chat-luong-kham-dich-vu-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-c683a963956.html
https://thitruong.nld.com.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/kham-gan-tai-phong-kham-chuyen-gan-hong-phong-20181008104826483.htm
https://suckhoedoisong.vn/kham-gan-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-quan-5-n144852.html
Bài viết hữu ích.
Trả lờiXóahttps://www.nguoiduatin.vn/dieu-tri-hieu-qua-benh-phu-khoa-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-a373132.html
https://www.24h.com.vn/tin-tuc-suc-khoe/chat-luong-kham-dich-vu-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-c683a963956.html
https://thitruong.nld.com.vn/doanh-nghiep-doanh-nhan/kham-gan-tai-phong-kham-chuyen-gan-hong-phong-20181008104826483.htm
https://suckhoedoisong.vn/kham-gan-tai-phong-kham-da-khoa-hong-phong-quan-5-n144852.html
Thank Lan Ngọc nghen, tại hạ... quy ẩn giang hồ, viết để... giết thời gian thui
Xóa