---
Tạm
có mấy... tiên đề sau:
1. Không hề
có chuyện ‘người Hán tràn sang VN và hình thành... dân tộc Việt’, vì: Thời mà
nhà Hán ‘đô hộ’ Giao Chỉ khoảng 300 năm (111TCN - 211SCN, rồi đến Đông Ngô)
thì: a) bị các cuộc khởi nghĩa của người ‘bản xứ’ nổi lên liên tục (Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, 'Khu Liên' (Lâm Ấp), v..v...), b) ngoài người bản xứ (chủ yếu) và người Hán (thứ yếu,
với tư cách là ‘khách trú’, xem dưới), còn có người Ấn Độ, Ba Tư, Trung Á,
Malay, Indo, Cam, Lào, Thái, Miến... đến từ phương Nam, đặc biệt là người MIÊU
(hay H’Mong, Mèo, tiếng Tây là ‘Miao’) đến từ phương Bắc (xem sơ đồ 'Nam tiến' của người Miêu (H.1)..., định cư tại xứ sở ‘Âu Lạc’
(chủ yếu là ở vùng Tây Bắc và một phần Đông Bắc), đặc biệt là, c) tất cả các
‘Thái thú Tàu’ đều kêu trời, bởi không những họ không đồng hóa được dân ‘Việt’
mà ngược lại, lại ‘bị đồng hóa’ (do nền ‘văn hóa bản làng’ của người ‘Việt’ tuy
âm thầm nhưng lại có tính ‘trội’, chưa kể vụ đạo Phật đến từ phương Nam)... Đến
thời Tống-Nho (đầu tk 11) thì VN đã có chủ quyền (năm 938), chỉ có vào cuối thời
nhà Minh (Sùng Trinh) thì ‘dân Tàu thua cuộc’ bỏ chạy tứ phương, tám hướng, thập
diện (mai phục), trong đó, chỉ có một tỉ lệ ‘nhỏ’ chạy sang VN... Vào những năm
1900, do ‘bên thua cuộc’, một bộ phận của lực lượng ‘Thái Bình Thiên Quốc’, ‘Nghĩa
hòa đoàn’ và đặc biệt là ‘Hội Tam Hoàng’ bị phe Tôn Trung Sơn truy bắt, buộc phải
chạy tứ tán khắp thế giới, trong đó có qua trốn bên VN (vào SG và miền Tây)
nhưng cũng chỉ là số ‘ít’...
2.
Về Lịch sử Việt Nam, thiết nghĩ nên căn
cứ vào: (1) Cuốn ‘Mê Công cạn dòng, Biển Đông dậy sóng’ của Ngô Thế Vinh, tại
sao?, vì Ngô Thế Vinh là một ‘tư vấn độc lập’ nên ông cũng nhìn nhận các vấn đề
một cách ‘độc lập’, ông đã bỏ ra trên dưới 30 năm để nghiên cứu về địa lý-lịch
sử của vùng sông Mê Công, nên toàn bộ lịch sử-tự nhiên của các nước ở ‘lưu vực
sông Mê Công’, rộng hơn là châu Á và thế giới, đều được ông đề cập, mà nền tảng
cuộc đấu tranh sinh tồn của các dân tộc có liên quan đến về ‘nước’ và ‘biển’...,
đến lượt nó, (2) Bài viết về ‘Lịch sử VN song song với Lịch sử Trung Hoa qua lịch
sử Miêu tộc’ của Trần Trúc Lâm hầu như dựa trên nền tảng thứ ba là ‘nha phiến’
manh nha từ đầu tk 19 rồi bùng nổ vào những năm 1840 và lừ lừ tiến đến năm 1949
(và sau đó là ‘nha phiến-Animal’!), trong đó, ‘nó’ kéo theo sự tham gia của
Pháp, Nhật, Anh, Mỹ, Nga, Tàu Tưởng và Tàu Cộng... vào VN, có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến nhà Nguyễn, ‘Việt Minh’ và chế độ VNCH ở miền Nam... (Tất nhiên
là còn rất nhiều tài liệu về lịch sử VN rất hay, nhưng ở đây tôi chỉ tạm nhắc đến
‘2’, còn gì thì sẽ nhắc thêm)...
3.
Lịch sử VN cũng được viết từ thời Tống-Nho,
do bị ‘tự ti dân tộc’ như thế nào đó mà các nhà ‘hủ nho Việt’ (Lê Văn Hưu, Ngô
Sĩ Liên...) đã mang truyền thuyết (Tàu!) vào lịch sử Việt (như vụ Thần Nông,
Viêm Đế, Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân hay
Thần Long Nữ/Tiểu Long Nữ...), cụ thể là: a) Kinh Dương Vương của VN ‘na ná’ với
vua Huan-yuan (Hiên Viên) của Tàu cả về mặt ‘lý lịch’ lẫn tuổi tác (đều cùng sống
vào giữa tk 28TCN)!, b) truyền thuyết ‘Hùng Vương’ của VN ‘same same’ với các
vua Hùng của nước Sở, c) truyền thuyết ‘An
Dương Vương và Trọng Thủy-Mỵ Châu’ của VN ‘same same’ với truyền thuyết ‘Hang
Tchu, Ty Ching-Ngao Shing’ của người Miêu cả về mặt thời gian (thời VN chính thức
nhập khẩu Tống Nho, từ 1070, cụ thể là gần cuối cuối thời Bắc Tống), nội dung lẫn
cách phát âm! (xem bài)..., chưa kể những Khổng Tử, Kinh Dịch hay Vương Chiêu
Quân... họ đều nhận là của VN!...
4.
Cái được gọi là ‘triết Tàu’ (Lão, Trang,
Khổng, Mạnh...) chỉ tồn tại chủ yếu đến thời Tống (gọi là Tống Nho), thời
Nguyên thì ‘say no’, thời Minh thì chấm hết vì họ áp dụng chế độ ‘công an trị’
(Đông Xưởng và Tây Xưởng), thời Thanh nếu hí hố quá thì có thể bị... tru di cửu
tộc (‘vụ án Minh sử’...), thời Mô Xếnh Xáng thì bị tiêu diệt hoàn toàn (1949,
các ‘di tích Khổng’ bị phá hủy hoàn toàn), thời ‘Trump’ thì bị trả về lại cho Độc
Cô cố chủ!...
5.
Ngoài ra, từ ngàn xưa, người Việt/triều
đình Việt gọi (các) người Tàu đến... tạm trú ở VN là ‘khách trú’ (phiên âm của
tiếng Hán ‘cac chu’), thời Tự Đức gọi giặc Tàu là giặc ‘Khách’ (bọn Cờ Đen, Cờ
Vàng, Cờ Trắng, kể cả người Vân Nam hay người Miêu...), Trịnh Công Sơn có câu
‘một ngàn năm đô hộ giặc Tàu’, hay nay gọi giặc Tàu là ‘giặc Lạ’..., nên, thiết
nghĩ từ mà dân ta hay dùng là TÀU xuất phát từ âm ‘CHU’ hay ‘TRU’ - từ ‘cac
chu’ hay một cách phát âm không dấu của ‘trú’!..., nay, thiết nghĩ, ta chỉ nên
gọi là ‘TÀU’, ‘TRUNG HOA’ hay ‘CHINA’, chứ không có vụ ‘Trung Quốc’... Và, chỉ
có ‘dân tộc Việt’ chứ không có vụ ‘dân tộc Kinh’ (‘kinh’ trong ‘kinh thành’, từ
dùng đầu thời nhà Nguyễn, ‘chỉ’ có nghĩa tương đối, tạm dùng để phân biệt giữa
người đồng bằng với người miền núi hay người ‘Thượng’), vì sao?, vì đất nước Việt
Nam chỉ có duy nhất một dân tộc, đó là ‘DÂN TỘC VIỆT’, trong đó có người Việt
(và Việt kiều), Êđê, M’nông, Chàm, Khơ me, Kinh (là người dtts ở Quảng Ninh của
VN và Quảng Tây, TQ), v..v...
...Có
chỉnh sửa cho dễ đọc hơn!, trình tự thời gian... tuân theo logic của tác giả...,
lưu ý rằng 'bài viết chỉ có giá trị tham khảo'!..., dưới đây tôi đăng toàn bài và
không hề cho bài này là... dài, vì:
-Thật
vậy, tối qua đã... 2g khuya, tôi rất buồn ngủ, vừa vớ tay bật cái đèn ngủ, chợt
thấy bài viết này nên tôi thử đọc vài... giây xem sao, nào ngờ ‘hay quá’ nên tỉnh
hẳn luôn!
*
NGƯỜI
MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG (H.2)
Trần Trúc-Lâm
(Tháng 1/1999, đăng
trên trang web ‘Nghiên cứu lịch sử’, ngày 31/7/2014).
Sắc
tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn
6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung Hoa.
Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến Điện. Có
khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ. Đã có khá nhiều sách báo Tây
phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ
càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn,
đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang
thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi.
Người Trung Hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đã thuần
(shu) và loại hoang (sheng). Loại Hmong thuần là nhóm đã được đồng hóa với
người Hoa, còn loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng
kiềm tỏa của chính quyền. Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với
nhóm Hmong sống hoang dã ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam
vào thế kỷ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại
phảng phất giống Caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài
người lại có mắt xanh. Có thể là vì thế mà người Hoa gọi họ là Miêu, hay Mèo
chăng? Số người giống Caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của
Trung Hoa luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, không nương
tay, ngay cả đến thời Dân Quốc và Trung Cộng ngày nay.
Sự kiện này đã làm các nhà
truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người Hmong. Nhưng
sử sách của người Hoa lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách
cổ nhắc đến một cách rõ ràng, không khác gì khi nói về nguồn gốc của Việt tộc.
Ngay cả các nhà sử học người Hoa vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên
của Hoa tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn
Thanh, người Hmong đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung Hoa.
Cuốn sách đầu tiên đề cập tương
đối đầy đủ về giống Hmong là cuốn “Histoire des Miao” (Lịch sử về Miêu tộc) do
nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại
Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc
Hmong ở Bắc kỳ và Lào.
1.
Vài ngàn năm trước: Về
sau, nhiều nhà sử học đồng ý rằng trong thời cổ đại giống Hmong xuất phát từ
châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định
cư ở lưu vực sông Hoàng Hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Hmong
còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm
tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả 6 tháng. Với người Hmong sống ở
vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ dùng để kể
chuyện là “nước cứng” và “cát trắng mịn”.
2.
Năm 2700 TCN: Số
phận dân Hmong bắt đầu gắn liền với sử Trung Hoa
có thể vào khoảng từ 3000 trước TL đến 1200 trước TL... Khoảng
2700 trước TL, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng trung thổ qua khu
vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà Bắc khi khí hậu ấm áp hơn cho
phép, và người Hmong đã định cư tại lưu vực sông Hoàng Hà
ở vùng thượng Hà Nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hoa Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm Tây, Sơn Tây và Hà Nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về
phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hoa Yangshao này hòa nhập với bộ tộc Hoa
Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn Đông.
3.
Năm 2697 TCN: Nhiều
truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung Hoa, đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc
bấy giờ. Theo người Hoa thì Hiên Viên (Huan-yuan) sau khi thống
lĩnh các thị tộc người Hoa (khoảng 2697 trước TL), liền tìm cách tiêu diệt luôn
Xi Vưu là tù trưởng của Miêu tộc dể chiếm miền lưu vực Hoàng
Hà mà vào bản bộ của Trung Hoa... Sau
khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng Đế
(Hoang-ti) mở đầu thời Ngũ Đế, đồng thời với Họ Hồng Bàng của VIỆT SỬ (!)... Người ta lại gán cho thời Hoàng Đế
kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hoa đã phát minh ra được thuyền
bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung,
biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán
ngày tháng gieo trồng, v..v... Hẳn nhiên Hoàng Đế chỉ là một nhân vật huyền
thoại của người Tầu, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra được
bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được sự
xung đột giữa 2 dân tộc Hoa-Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ
đó cứ kéo dài mãi suốt lịch sử Trung Hoa.
4.
Năm 1576 TCN: Vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ lạc tộc Thương,
lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập
ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh một
giải đất thuộc tỉnh Hà Nam và Sơn Tây bây giờ. Đến đời vua thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên
còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ, định canh, mục súc, tằm tang và
chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất hiếu chiến, giao tranh luôn với
các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch bại trận bị bắt làm nô lệ, và
còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa.Vào năm 1930, trong một cuộc đào xới
khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương, người ta
tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc phi-Mông-Cổ (có nghĩa là gốc Caucasian) lẫn lộn.
5.
Năm 1059 TCN: Đến
đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước TL) thì ngay sau khi
diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ Vương
liền đày một số tộc Miêu lên vùng biên cương Cam Túc
(Kansu), tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác dưới sự kiểm
soát của các đội biên phòng, nhưng người Hmong, quen sống tự do bỏ trốn
vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi.
6.
Thế kỷ 7 TCN: Đến
thế kỷ thứ 7 trước TL, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển
Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân nhà
Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung Hoa. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước TL, và
một phần theo dòng sông Vệ vào vùng Tứ Xuyên, rồi trốn vào Tây Tạng yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc... Số
tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ
luôn nổi dậy.
7.
Năm 826 TCN: Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu tán khắp phương; một số chạy đến bờ
biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến Quảng Tây,
Hồ Nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ Xuyên
và Quế Châu, xa khỏi vòng kiềm chế của nhà Chu.
8.
Năm 770 TCN: Ấy
vậy mà năm 770 trước TL, U Vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ
Khuyển Nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình Vương phải dời đô từ Cảo Kinh (Tây Đô)
về Lạc Dương (tức Đông Đô), nên sử gọi là Đông Chu...
9.
Năm 722 TCN: Tiếp
sau đó, nước Tầu bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722-481
trước TL), rồi Chiến quốc (453-221 trước TL), số phận Miêu tộc
không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Tầu.
10.
Năm 275TCN: Cùng
thời xin nhớ rằng, ở nước VĂN LANG khoảng 275 trước TL, Thục Phán
dành được ngôi từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là
Âu Lạc, xây thành Cổ Loa.
11.
Năm 221TCN: Mãi
đến đời Tần (Ch’in hay Qin: 221-206 trước TL), sau khi nhất
thống Trung Hoa, Tần Thỉ Hoàng (Shih Huang-ti) dời đô về Hàm Dương,
quyết tâm đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn Lý Trường Thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ phương Bắc. Tần Thỉ Hoàng đã
ra lệnh cho tướng Đồ Thư đánh chiếm các xứ Bách Việt ở phương nam (khoảng các tỉnh Hồ Nam, Quảng Đông và Quảng Tây bây giờ), rồi cho di dân hơn
50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam Hải
là Triệu Đà cai quản. An Dương Vương
xin thần phục nhà Tần (!).
12.
Năm 208TCN: Khi
nước Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh hùng thì
năm 208 trước TL, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm
Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận).
13.
Năm 206TCN: Khi
nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 TL), nhờ yên ổn với các
rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm.
14.
Năm 134TCN: Đời
Vũ Đế (134 - 88 trước TL), quân Hán đã đánh chiếm Triều Tiên
và chia ra làm 4 quận.
15.
Năm 111TCN: (Nhà Hán) lại sai Lộ Bác Đức
chiếm nước Nam Việt, đổi thành GIAO CHỈ BỘ
(Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận... Quân
Hán còn chiếm các đất của rợ Di phía tây
nam như Vân Nam, Quế Châu và Tứ Xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng Tây.
16.
Năm 41 (SCN): Vua
Quang Vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh dẹp cuộc
nổi loạn của Hai Bà Trưng ở quận Giao Chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên
giới (!).
17.
Năm 66: Hai mươi hai năm sau, quân Hán
mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn của Miêu tộc ở phía nam Hồ Nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2 vạn quân vì bệnh
ôn dịch trong khi hành quân... Nhà Đông Hán đã trả thù rất
khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng mạc
người Hmong trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời Chiêu Đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường
của Miêu tộc.
18.
Năm 220: Đến thời
Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei, Shu Han, Wu, 220-280) thì
người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần lớn đất Hồ Nam
và Quế Châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn nam của Hồ Bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở
Hà Nam, Sơn Tây và lan đến phía đông An Huy.
19.
Năm 316: Sau
đời Tấn (Chin hay Jin: 265-316) thì nước Tầu suy yếu, rơi
vào hỗn loạn của thời Nam Bắc Triều (Nan Bei) (hay còn gọi là
Lục Triều: 317-589) thì khoảng từ năm 403-561
đã có đến hơn 40 lần người Hmong nổi dậy để đòi độc lập, cùng với những sắc tộc
khác ở khắp nơi mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ Hồ
(Hung Nô, Yết, Tiên-ti, Chi và Khương).
20.
Giữa tk 6: Người Hmong đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá rộng ở phía
tây Trung Hoa kéo dài từ Hà Nam qua Hồ Bắc,
Hồ Nam xuống đến Quảng Tây, có thể lẫn lộn biên cương
giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được
các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số
danh sĩ được tiến cử vào các triều.
21.
Năm 618: Nhưng
thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà
Đường (T’ang: 618-907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589-618),
thì bắt đầu đánh dẹp và thu hồi đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có
Hmong. Đổi lại, nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho
triều đình.
22.
Năm 907: Nước
Tầu lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ Đại (Lương, Đường, Tấn, Hán và Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy
vương quốc Hmong.
23. Năm 960: Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung Hoa
(Sung: 960 - 1279), lại cử binh giành lại các đất vùng Hồ Bắc
và Hồ Nam. Trong các cuộc giao tranh toàn bộ vương triều của Hmong bị
tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời vàng son của bộ tộc
Miêu... Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó
như sau: Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì chiến
trận, giàn quân kháng cự quân Tống. Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao
Shing cũng cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn
học được phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân
Tống... Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là
Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng
người Hoa bày quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua
Tống, nhưng khi thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị
bỏ ngục và kết án tử hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc
tội. Y liền quay lại đất Hồ giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử
nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị
vua cha bạc đãi đến chết. Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên
Tỷ Thanh mới có thể tiêu diệt được triều thần Hang Tchu... Người
Hmong lại phải chạy trốn vào vùng Quế Châu
và Tứ Xuyên; số khác lại tẩu táng xuống Quảng Đông
và Quảng Tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người Hoa lại
còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y phục có màu khác
nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi nhóm
lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy vậy họ
vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là Hoa tộc... Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ
nữ Mông một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau: “Họ cư trú trên các thung lũng
của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao một
ngàn (mét) ta bắt gặp những bản
làng của người Mông, bốn mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là
những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những
con đường mòn vừa đủ cho người địu gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền
núi cheo leo... Giữa khung cảnh tịch
mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ,
bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi
bật lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh
động và ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày,
Nùng, Dao …vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Mông: Đây là cô gái Mông Trắng
mặc váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô
gái Mông Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở
ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Mông Đen quấn vành
khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm mỗi
bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Mông Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ
một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống”…
24.
Năm 1115: Trở
lại câu chuyện gốc gác người Hmong ở Tầu thì sau khi bị phân tán vào các vùng
cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi nhà Tống bận rộn trong
việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung Hoa
mà xao lãng quân sự đưa đến việc rợ Khế Đơn
(Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên Ti
(Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang Bắc,
Ninh Hạ và Cam Túc. Từ đó nước Tầu lại can qua giữa 3 nước... Những
năm về sau ở nước Liêu, Mãn-tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước Đại Kim
(Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234).
25.
Năm 1215: Tống
Hy Tông liên kết với Đại Kim để diệt Liêu, rồi nhà Tống
quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông Cổ phát triển hùng mạnh với Thành Cát Tư Hản (Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm
1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á và tàn phá vùng Nga-la-tư.
26.
Năm 1224: Khi
quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm 1224, chọn Yên Kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng
là Nguyên Thái Tổ.
27.
Năm 1227: Sau
khi Thành Cát Tư Hản mất năm 1227, thì con là Oa Khoát Đài hay A Loa Đài (Ogadai) thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận
vùng Trung Âu.
28.
Năm 1253: Sau
khi Oa Khoát Đài mất, Mông Kha (Mongke) lên ngôi một mặt
tiếp tục tàn phá châu Âu và mặt khác sai cháu cuả Oa Khoát Đài là Hốt Tất Liệt (Kublai Khan) cử binh đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của
nưuớc Nam Chiếu (ở vùng Vân Nam bây giờ) vào năm 1253, rồi
tiến đánh nhà Nam Tống và nước An Nam. Khi Hốt Tất Liệt đánh vào Quế Châu, Tứ Xuyên,
quân Mông Cổ đã không tiến sâu vào vùng cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị
sát hại nhiều.
29.
Khoảng từ năm 1267-1279: Hốt Tất Liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông Kha
mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên Thế Tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279-1368)
ở Trung Hoa. Vua Tống Cung Đế và các đại thần phải nhảy
xuống biển tự vận.
30.
Năm 1368:
Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi lên đánh đuổi được
quân Mông Cổ lập nên nhà Minh (Ming: 1368-1644).
Nhà Minh lại nhắm vào Miến Điện như là cửa ngõ buôn bán với
vùng Đông-Nam Á, nên quyết bình định vùng Vân Nam.
Trước tiên họ đặt ra hệ thống thổ-ty (Tu Si system) và ưu đãi nhóm người Lô Lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người Miêu thường xuyên nổi
dậy.
31.
Năm 1459: Quan
quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2 ngàn đồn biên phòng tại Quế Châu, Tứ Xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá làng mạc và
căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40.000
người... Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm nào mà người Miêu
không vùng lên đòi độc lập, và tung hoành một cõi từ Quế Châu
đến tận Hồ Nam. Để ngăn chận họ, nhà Minh cho xây một trường thành nhỏ giống
Vạn Lý Trường Thành gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên
giới Hồ Nam và Quế Châu.
32.
Năm 1616: Người
Mãn Châu là hậu duệ của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh, Nỗ Nhỉ Cáp Xích quật khởi ở miền Liêu Ninh
xưng là Thái Tổ và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm Dương
chống lại nhà Minh.
33.
Năm 1636: Hoàng Thái Cực kế vị vua cha, đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh phục Triều Tiên, Nội Mông Cổ và miền Đông-bắc của Minh
triều và đến năm 1644 thì Thuận Trị dứt được nhà Minh, thiết lập
Thanh triều ở Trung Hoa (Ch’ing hay Qing: 1644-1911)... Tàn
quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang Nhật Bản
và VIỆT NAM. Một số khác do Hoàng Minh và Mã Báo bỏ Quảng Tây trốn vào Quế Châu cốt tìm đường sang Vân Nam. Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho họ
toàn bộ vũ khí và còn bày cho cách chế tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu
vẫn còn sử dụng.
34.
Năm 1727: Sự
kiện này đã làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa Đài (Ortai), thống đốc Quế Châu, mở chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si)
tấn công vào Quí Dương (Guiyang) là thủ phủ rồi vào Liễu Bình
(Lip’ing). Quân Hmong đông đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với
súng hỏa mai và đại bác nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng
quân Thanh thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ
tượng kỷ niệm chiến thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một hòn đảo trên sông Liên,
cửa vào Quí Dương... Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4 thị trấn
ven sông. Nhà Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công vào cứ
điểm của người Hmong từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng đều bị giết
sạch. Điều này làm cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên kết dựng những
hỏa đài báo hiệu sự tiến công của quân Thanh trên các sườn núi. Di tích của
những hỏa đài này hiện vẩn còn. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến
chết. Họ còn giết hết vợ con để khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên
cuồng chẹn các đèo vào núi, làm cho cả Bắc-kinh lo lắng... Dương
Quang Sĩ được cử thay Oa Đài ra sức giải tỏa hết các chốt
và cắt đường tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ đói khát phải mở đường máu. 20.000 quân Miêu bị giết trên chiến trường. Khoảng 27.000 quân khác bị bắt và một nửa số bị sát hại sau đó. Tổng số súng dài tịch
thu lên đến gần 50.000 khẩu. Dương Quang Sĩ còn khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20.000 làng mạc của người Hmong, tước đoạt đất đai của họ. Dân Miêu lại
phải trốn chạy vào các vùng lân cận để thoát thân, một số vượt biên giới vào
miền bắc VIỆT NAM, định cư ở Đông Quan và núi Hoàng Su Phi.
Tuy vậy số người Hmong còn ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn khuất phục, thỉnh
thoảng vẫn tìm cách nổi dậy.
35.
Năm 1740: Đời
Ung Chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan trực
tiếp cai trị vùng Tứ Xuyên, Quế Châu, Vân Nam, Quảng Tây cốt để đồng hóa họ và khai
thác các quặng than, bạc và đồng cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng
gia tăng thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu điêu đứng, khiến họ nổi dậy
không ngừng.
36.
Năm 1796: Người
Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới sự lãnh đạo của 2 tù trưởng là Thỉ Sanh Báo và
Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quế Châu, Hồ Nam để khủng bố nông dân người Hoa vốn do Thanh triều di dân đến
dưới mỹ danh là “KHÁCH TRÚ” và được quân đội bảo vệ. Bắc Kinh
phải vội tăng viện để dập tắt cuộc bạo loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm
mới xong. Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành từ lâu đã bị bỏ hoang và tăng
cường thêm quân bố phòng để kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của người Hmong
và quyết tâm đồng hóa họ. Người Thanh còn bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ
Hán và Hoa tộc được quyền cưới phụ nữ Miêu... Nhiều
nhóm Miêu không chịu đựng được sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở những
tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ Nam
và bắc của Quảng Tây, Miêu trắng dời về phía bắc vào vùng Tứ Xuyên,
và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng Vân Nam.
37.
Năm 1818: Lúc
bấy giờ ở vùng Vân Nam, vốn xưa là nước Đại Lý đã có giống người Hản (Haw) cư ngụ. Họ
là người theo đạo Hồi có liên hệ với người Panthay ở Miến Điện,
chuyên về buôn bán thương mãi. Họ thường bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ
thị cho nên cũng đã nổi dậy nhiều lần đòi độc lập, như vào các năm 1818, 1826
và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn bạo.
38.
Nhưng từ năm 1855-1873, người Hản vùng dậy và làm chủ được toàn vùng dưới sự lãnh đạo của
Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) vì nhà Thanh còn bận đương đầu với loạn Thái Bình (Thiên
Quốc, Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu
tuyên bố Vân Nam là một nước Hồi giáo độc lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay
quay lại tái chiếm. Người Hmong cùng tham gia với người Hản nổi dậy nên cũng
chịu chung số phận bị tàn sát dã man. Người ta ước tính có đến cả triệu (!) người Vân Nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế là người Hản và
người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến Điện
và Đông Dương lánh nạn. Nhóm đến VIỆT NAM
lần này đông khoảng 6.000 người kéo vào ĐỒNG VĂN ở gần biên giới...
39.
Trước đấy từ năm 1815-1818 đã có người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở ĐỒNG VĂN. Sau đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc của ngọn núi FAN SI FAN, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai tìm thấy dấu vết của họ đâu
nữa, làng mạc bị bỏ hoang... Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có
liên quan đến một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn Mã. Nhân một chuyến
ghé qua Fan Si Pan để thu mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng
đất hoang mầu mỡ ở dãy núi Xieng Khoảng phía đông nước Lào. Thực ra thì y chỉ
muốn thủ lợi riêng bởi vì người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến để
bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên phong
được “tiểu vương” (kiatong) Lo See Pa giao cho Kue Vue
cầm đầu, tìm đến vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là phì nhiêu, thế là
trong vòng vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong Het
và để tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mã... Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài năm thì Lo See Pa bị bọn
cướp người Hoa giết chết trong một trận tấn công vào làng không thành cốt để
đoạt nha phiến.
40.
Năm 1850: Kẻ
kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc giòng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy trì
vài thập niên mãi đến khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lý và
nhóm họ Moua xuất hiện... Nhóm người Miêu họ Lý, lãnh đạo
bởi Lý Nghia Vue vốn ở nước Đại Lý xưa kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi
dậy cùng với người Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua
cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ nhiên là họ không chịu thần phục giòng họ Lo, và
vẫn giữ nguyên tiểu vương của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được tôn kính hơn cả.
41.
Năm 1860: Cùng
đợt tị nạn từ khi vùng Vân Nam bị thất thủ vào năm 1860 và
loạn Thái Bình bị đập tan vào năm 1863, một khối lượng đông đảo người từ
Trung Hoa tràn xuống VIỆT NAM, trong đó có cả Miêu tộc.
42.
Năm 1865: Bọn
họ là đám tàn quân nên còn mang theo vũ khí, đi cướp phá mạn thượng du ĐỒNG VĂN, YÊN MINH và QUẢNG
BÁ miền bắc nước ta dưới triều Tự Đức, nên sử
ghi là giặc KHÁCH. Mạn TUYÊN QUANG có Nông Hùng Thạc, mạn Cao Bằng có Ngô Côn và Lý Hợp Thắng chiếm tỉnh lỵ năm 1865. Về sau có dư đảng là bọn Hoàng Sùng Anh, hiệu Cờ Vàng
và Lưu Vĩnh Phúc, hiệu Cờ Đen,
Bàn Văn Nhị, hiệu Cờ Trắng
cùng với giặc biển tên Phụng liên tục quấy phá khắp nơi ở miền Bắc... Lúc bấy giờ tình hình nước ta thật điêu đứng với giặc ngoại xâm,
trong nam thì đã bị quân Pháp chiếm, mà chúng còn đang hăm he đặt nền bảo hộ và
đánh Bắc kỳ. Ngoài bắc thì đám giặc khách uy hiếp làm quan quân ta chống đỡ
không nổi. Riêng giặc ở thượng du đã có lúc tràn xuống tận YÊN BÁI vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức phong cho Nguyễn Tri Phương
làm Tây bắc Tổng thống Quân vụ Đại thần đốc thúc việc tảo trừ, năm 1863 quân ta tái chiếm thành Tuyên Quang.
Miêu tộc rút lui về Quảng Bá... Tại núi Phước ở Quảng Bá lại
xuất hiện một thủ lãnh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào lộn và phi thân
rất giỏi, tự xưng là tân vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu số khác trong
vùng như Mán và Nùng cũng thần phục y, gây một thế lực rất lớn. Chỉ trừ giống
Thổ là chống đối. Y xây lâu đài, dựng triều đình, lập quân đội, làm vũ khí với
súng hỏa mai. Xiong liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng cư dân lớn
hơn khác của người Thổ gần Quảng Bá. Chiến thắng này làm tăng thêm uy danh của
Xiong.
43.
Năm 1894: Trong
vòng 12 năm sau, y giao việc hành quân cướp phá các vùng lân cận cho thuộc hạ,
còn y thì chỉ vui hưởng tại cung điện mà thôi... Sau
khi Xiong chết vì ám sát thì vương quốc của y cũng tan rã, kẻ kế vị là Cha
Shue, một tù trưởng ở dãy núi Hoàng Su Phi. Vùng y tự trị nằm vắt qua hai biên
giới Việt-Hoa, và vào năm 1894 y còn được Thanh triều phong cho chức thổ-ty.
Người Pháp lúc bấy giờ đã chiếm Việt Nam làm thuộc địa cũng để yên
cho Cha Shue, vì họ cần người Miêu cung cấp gỗ độc quyền cho họ. Về sau Cha
Shue còn gây thế lực bằng cánh đánh thuế trên số gỗ bán cho người Pháp. Uy tín
của Cha Shue còn được truyền tụng ở Nong Het.
44.
Cuối tk19: Sau
khi định cư ở Lào, người Hmong lại phải ác chiến với người Khạ ở vùng Xiêng
Khoảng vào nửa cuối thế kỷ thứ 19. Người Khạ hay còn gọi là người Kh’mu vốn là
cư dân lâu đời tại Lào, có thể từ thế kỷ thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của
nước Phù Nam (Funan), sau lại lệ thuộc vương quốc Chân Lạp
(Chenla), và rồi Khmer.
45.
Vào thế kỷ 13 và 14, khi nước
Nam Chiếu bị người Mông Cổ diệt, bộ tộc Lào và Tày di
dân qua đất hạ Lào trở nên đa số và thiết lập vương quốc độc lập Luang Prabang.
Từ đó người Khạ bị người Lào khinh miệt và bị bạc đãi tàn tệ, phải sống ở vùng
thượng du... Khi người Hmong định cư ở Xieng Khoảng, người Khạ bắt họ phải cống
nạp nông sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người Hmong còn sống sung túc bằng
nghề trồng trọt nha phiến người Khạ lại đòi hỏi thêm thuốc phiện. Điều này đã
đưa đến chiến tranh và người Khạ bị thua trận phải kéo chạy về vùng núi gần
Luang Prabang.
46.
Đầu tk 19 - cuối tk 19: Thị trường nha phiến trên thế giới khởi phát từ Á châu
bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu thế kỷ 19 đã giúp cho người Hmong đóng một vai
trò quan trọng trong việc sản xuất chất thô. Bọn đế quốc lại dùng số lợi nhuận
khổng lồ để tái tài trợ cho những âm mưu bành trướng thế lực và cai trị thuộc
địa. Cuối thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông qua đạo luật ngăn cấm chính phủ tham
gia thì Pháp độc quyền thị trường ma túy. Chính vì nguồn lợi này mà Pháp đã
thôn tính luôn cả Cam Bốt và Lào để có đường thông thương với thượng du Vân Nam.
47.
Năm 1954: Ngay
cả sau khi Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương vào 1954, ảnh hưởng của họ trên
thị trường ma túy vẫn không giảm, và chính tập đoàn buôn lậu đã mua chuộc và
làm thối nát chính quyền miền Nam (VNCH) để bọn họ dễ dàng làm ăn, và
chắc chắn là bọn họ cũng lũng đoạn chế độ hiện nay tại Việt Nam.
48.
Cuối năm 1960, người ta ước
tính là nông dân người Hmong ở Lào đã cung cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị
trường ma túy của thế giới.
49.
Năm 1893: Khi
người Pháp đô hộ Lào từ năm 1893, họ dùng người Lào và Tày cai trị dân miền núi
cho nên đã xảy ra khá nhiều chuyện bóc lột hà hiếp dân Miêu với thuế khóa nặng
nề trên nông sản nha phiến.
50.
Năm 1896: Người
Pháp lại tăng thuế và đòi trả một phần bằng thuốc phiện, làm cho Miêu tộc nổi
loạn, họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của người Tầu là Pháp Quỉ (Fa kouie). Lần đầu họ thành công khi tấn công đồn lính tây ở
Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại ở lần thứ hai khi đánh vào tiểu khu Xieng
Khoảng. Vì vậy tiểu vương họ Lo bị truất phế và được thay vào bởi họ Moua, tên
Tong Ger. Tân tiểu vương liền xin hòa đàm với nhà cầm quyền thuộc địa tại Bản
Ban để được giảm bớt thuế, và sự giao thiệp giữa Pháp và người Hmong bớt căng
thẳng.
51.
Năm 1870: Dư
đảng của giặc Thái Bình ở Trung Hoa sau khi tràn vào VIỆT NAM, chia làm hai phe Cờ Vàng ở Tuyên Quang và Cờ Đen ở Lào Kay
chống chọi nhau ở mạn thượng du.
52.
Đến năm 1875,
giặc Cờ Vàng bị dẹp tan. Còn Lưu Hữu
Phúc đầu đảng Cờ Đen xin thần phục triều đình nhà Nguyễn rất sớm. Vua Tự Đức
phong cho Phúc làm đề đốc, và khi quân Pháp dưới quyền của Đại úy Hải quân
Francis Garnier đánh thành Hà Nội, Garnier đã bị quân của Lưu Hữu Phúc phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm 1873.
53.
Năm 1882: Âm
mưu của Pháp muốn chiếm Bắc kỳ vẫn không phai, nên đầu năm 1882,
Đại tá Hải quân Henri Riviere được lệnh đem tàu chiến ra đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai, thừa thắng hạ luôn thành Nam Định
vào tháng 3/1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng 5 thì Riviere lại bị quân Cờ Đen phục ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen còn bêu đầu của Riviere
từ làng này qua làng khác.
54.
Năm 1914: Nhiều
cánh quân Cờ Đen khác thường đem quân sang Lào, đánh cướp nha phiến của người
Hmong để mua lương thực và vũ khí, và bắt đi đàn bà con gái cho nên Miêu tộc
phải nhờ người Pháp bảo vệ. Tháng 11/1914,
quân Cờ Đen tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau đấy tiến đánh Phong Saly
và đã đụng độ đến mấy tháng với lực lượng Hmong và Pháp, trước khi bị bại phải
tháo chạy trở về Trung Hoa... Một thủ lãnh Miêu ở HÀ GIANG, tên Yang Yilong được tin bèn
xin nhà cầm quyền địa phương Pháp trang bị vũ khí để mở những trận du kích đuổi
quân Cờ Đen. Từ đó mở đầu cuộc hợp tác quân sự giữa người Miêu và Pháp, và
kéo dài cho mãi về sau. Để trả thù quân cờ đen đốt phá các buôn làng của người
Miêu mà họ đi qua... Cuộc hợp tác giữa người Miêu và Pháp cũng chẳng mấy êm trôi khi
chính quyền thuộc địa lại tăng thuế vào năm 1914, gánh nặng bất công đè trĩu
trên vai người Hmong. Đã vậy thực dân Pháp lại quyết định mở những trục lộ giao
thông giữa Việt Nam và Lào chạy qua Xiêng Khoảng và Phong Saly, và bắt dân Hmong đi
làm phu, làm cho việc mùa màng bị đình trệ càng thiếu tiền đóng thuế. Nhiều
làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.
55.
Năm 1917: Phụ
tá của kiatong Moua Tong già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng bóc lột phu phen
người Miêu đã đưa đến sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào quân địa phương của Pháp
để đàn áp.
56.
Năm 1919: Trong khi đó ở buôn làng người Miêu trong vùng ĐIỆN BIEN PHỦ xuất hiện một thủ lãnh tên là Chay Pa, gốc gác từ Vân Nam, biết nói và viết ba thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật,
cầm đầu người Miêu chống lại ngươi Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người Miêu
không đóng thuế. Quân Pháp được gởi từ Sơn La đến để truy lùng Chay Pa, nhưng
thường bị tập kích. Nhưng đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút quân sang
Xieng Khoảng và hô hào người Hmong đứng lên chống Pháp để lập một vương quốc
độc lập với kinh đô là Điện Biên Phủ.
57.
Năm 1922: Chay
Pa được sự hưởng ứng của người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh phá các căn cứ
của lính thuộc địa. Họ còn ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng hợp tác
với Pháp chặt chẽ hơn. Nhà cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính qui từ Việt Nam sang, và áp dụng kế sách ấp chiến lược cô lập quân nổi dậy.
Chiến lược này lần hồi thành công và khiến loạn quân tan rã, nhưng quân Pháp
vẫn treo giải cho đầu của Chay Pa. Y rút vào rừng sâu sống với vài bộ hạ thân
tín nhưng lại bị theo dõi và bị ám sát vào tháng 11/1922.
58.
Năm 1865: Sau
vụ nổi dậy bất thành của Trịnh Chiếu ở Vân Nam,
Tứ Xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có một
người họ Lý đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đình và có 3 con; trong số có
cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên May. Hai người
có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm vợ bé, và
May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lý trở nên căng
thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối nhà
cầm quyền liền chia cho họ Lý cai quản Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem
vùng Phac Boun.
59.
Năm 1935:
Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế chức kiatong... Cùng
năm này người Hmong lần đầu theo học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng
Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lý và Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành
ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian, Touby Lý đỗ xong trung học và theo
học trường Hành chánh mở tại Vientiane... Lo
Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ rất phật lòng quan cai
trị người Pháp. Nhưng Lý Foung lại khôn khéo đem tiền của mình đền bù giùm nên
được lòng tin của quan bảo hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai trò chính trị xán
lạn của đứa con trai Lý Touby đã được dọn sẳn. Đến khi người Pháp sa thải Tou
Song khỏi chức kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em
của Tou Song là Faydang rất lấy làm bất bình sinh oán hận Touby, khiếu nại đến
hoàng thân Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át... Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ đứng vững chãi trong guồng
máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y đã dùng sản lượng nha phiến do
người Hmong trồng trọt để làm áp lực với người Pháp, vì Pháp đang muốn chiếm
độc quyền thị trường thế giới lúc bấy giờ. Y còn thuyết phục người Pháp nâng
cao vai trò của người Hmong trong xã hội Lào.
60.
Năm 1949:
Trung Hoa (đại
lục) hoàn toàn do đảng Cộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân Nam và biên giới Miến Điện vốn nằm dưới sự cai quản
của tàn dư quân đội Quốc Dân Đảng
bị cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận
dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường.
61.
Năm 1953,
Liên Hiệp Quốc ký công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha
phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng
cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông Dương
vì chiến tranh leo thang.
62.
Năm 1940: Khi
nước Pháp bị Đức Quốc Xã cai trị vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông
Dương. Toàn quyền Decoux được Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đã ra
lệnh quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8/1944,
khi Paris được giải phóng thì cuộc diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành
kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11, quân biệt động Pháp được thả dù
xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại dội bom các hải
cảng ở Việt Nam.
63.
Tháng 3/1945: Nhật liền đảo chánh và ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông
Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy dù từ Ấn Độ vào thượng Lào với sự bao che của người Hmong. Khi Nhật biết có
sự dính líu của người Hmong vào kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền bắt Lý Touby
và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên được
tha. Chẳng sờn lòng, Touby liền liên lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt
động Pháp để hợp tác chống Nhật... Việc này làm cho quân Nhật điên
cuồng, họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp,
và vô tình làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người
Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác
với người Nhật truy diệt lính Pháp... Tháng 3/1945, người Nhật bắt giam tất cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở
Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath
xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ
vào tháng 10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm
hoàng cung và ép vua Lào tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của
Phetsarath. Đảng Lao Isalla cầu cứu với Việt Minh,
cùng với nhóm Hmong của Faydang để chống Pháp, thế là bộ đội Việt Minh được chính thức mời vào lãnh thổ Lào cùng với một khối cư dân
Việt. Việt Minh lại còn tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt Nam. Tháng 11, lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong
của Touby đánh bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là cộng
sản, và đến mùa hè năm 1950, Faydang gia nhập đảng Pathet
Lào (Cộng đảng Lào).
64.
Tháng 8/1945: Lúc
bấy giờ Hoa Kỳ là đồng minh với Liên Xô chống phe trục, lại âm thầm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích quân Việt Minh để quấy phá quân Nhật ở Đông Dương
làm cho thế lực của Việt Minh gia tăng thêm. Đến khi Nhật
đầu hàng đồng minh vào tháng 8/1945, Hồ Chí Minh
cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà Nội,
thành lập chánh phủ liên hiệp và tuyên bố Việt Nam
độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại không chịu giao lại cho Pháp mà
lại giao cho Việt Minh.
65.
Năm 1946: Pháp
không chịu công nhận Việt Nam độc lập, nhưng lại mời Hồ Chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở lại Đông Dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ý
dân. Đồng thời Pháp lại hỗ trợ cho một nội các chống Việt
Minh được dựng lên ở Sài Gòn, và còn có ý định lập một
nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống hòa bình gượng gạo với Việt Minh không kéo dài được lâu. Tháng 11/1946, một cuộc đụng độ võ trang Việt-Pháp
ở Hải Phòng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông Dương... Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc lập trong Liên Hiệp Pháp và
mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người trong gia đình Touby đắc cử vùng
Xiang Khoảng, đó là Lý Foung Toulia. Họ tranh đấu để được đối xử bình đẳng như công
dân Lào, và có đại diện trong hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến
Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng
của người Hmong trong chính quyền Lào.
66.
Năm 1947: Việt
Minh cũng chú ý đến nguồn lợi nha phiến để mua vũ khí ở biên giới
Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn.
Người ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến
lên đến 400 triệu đồng bạc Đông dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất
cảng của toàn Đông Dương cùng năm. Vì thế Pháp đã bằng mọi giá phải kiểm soát được
nguồn tài nguyên này, năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép
người Hmong hầu như độc quyền trồng nha phiến ở Lào... Cùng
năm, Touby được đưa về Sàigòn để Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực
lượng biệt động địa phương chống Việt Minh.
67.
Từ năm 1951-1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho thi hành “chiến
dịch X” để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu số. Phi cơ quân sự được
lệnh chở thuốc phiện cuả người Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sài Gòn, giao cho Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ
là Giám đốc Cảnh sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đã nhận được
khoảng 4 triệu đô-la cho lực lượng người Hmong.
68. Cuối năm 1950: Quân Pháp không còn kiểm soát
nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với Việt Minh. Việt Minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ dàng tiếp
nhận viện trợ vũ khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân công chuyển
qua đường rừng núi... Việt Minh mở những trận phản công lại trùng với chiến cuộc Cao Ly, nên trước những đe dọa phối hợp của Cộng sản quốc tế, tổng
thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương trong vòng 4 năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận
Việt Cộng... Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận
hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aeroportes:
Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều
toán du kích người sắc tộc thiểu số Đông Dương,
đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt Nam
và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi
Cơ quan Tình báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là
qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân
tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đã được
huấn luyện tại đây để về lãnh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly, Xieng
Khoảng và Sầm Nứa... Trinquiner quyết gấp rút thành lập một lực lượng du kích ở tây bắc
Lào để gây rối an toàn khu của Việt Minh tại Sip -Song Chau Thai, phía tây Hắc Giang
và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo Quang Chao, tù trưởng Hmong ở Lào Kay sức
vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la.
69. Đến tháng 4/1952, GCMA ở Hà Nội đã thả dù cho Lo 2.500 cây súng trường để đám này
kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi. Trinquiner hài lòng với những chiến
công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và
truy tặng Anh dũng bội tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo
Quang Chao.
70. Năm 1953: Lo tung hoành ở vùng biên giới Việt-Hoa một thời gian nhưng rốt
cuộc bị giết chết vào tháng 8/1953, và nhóm du lích của y tan
rã... Tháng 4/1953, Việt Minh và Pathet Lào phối hợp chia
thành hai gọng kìm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang, Faydang có mặt ở tuyến
đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dã chiến tại Cánh đồng Chum để tăng phái quân
cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong thuộc cánh Touby, và nay có
thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đã đẩy lui được các cuộc tấn công của địch
tại Lào, và Việt minh rút quân về lại Việt nam để tập trung vào chiến dịch Điện
Biên Phủ.
71. Năm 1954: Pháp bị đại bại tại Điện Biên
Phủ vào tháng 5/1954, đưa đến hiệp định Geneva.
Pháp rút lui dần khỏi địa bàn Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ
Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn cộng sản ở Đông Nam Á nên gia tăng
viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái Lan,
Nam Việt và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để
khuynh đảo các chính quyền địa phương, và đã đi vào con đường mà GCMA đã vẽ ra.
72. Năm 1957: Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng phần lớn ở lại Lào để gây
dựng quân đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat ), đưa đến việc tranh dành quyền lực
với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào cộng được tham gia vào chính phủ liên hiệp
Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh và bắt
giam đại biểu của Pathet Lào. Quân độ Bắc Việt liền chiếm hết những tỉnh của
Lào chạy dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh,
và yểm trợ cho quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ hậu thuẩn phe Hoàng
gia.
73. Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia, tự cho mình
là trung lập, làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt được cuộc nội chiến, đã ra
lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào. Chỉ vài tháng
sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên
kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh.
74. Năm 1962: Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại ở chiến
trường, nên đến tháng 7/1962, một chính phủ liên hiệp
khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma lãnh đạo. Phe
cộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ vào chính trường
Lào, bất lợi cho họ nên đã rút vào rừng tiến hành vũ trang với sự tiếp tay của
quân Bắc Việt.
75. Năm 1972: Cuộc chiến giằng co mãi làm Hoa kỳ sốt ruột, quyết định dội bom ồ
ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng
được cán cân...
76. Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và cả Đông Dương. Thủ tướng Souvana Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để
thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21/2/1973. Phe Pathet Lào tìm mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại
bộc phát từ 1974 cho đến 1975.
77. Tháng 3/1975: Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công cuối vào các cứ
điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8.
Tháng 12, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm
chủ tịch, và bải bõ chế độ quân chủ ở Lào... Trong
cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là người Hmong, có lẽ đến 1/3 dân
số Miêu tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đã bị hy sinh. Số phận của họ
đều nằm trong tay một người phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy
giấy cho lính biệt động Tây, rồi lên chức đội cò và theo thời gian với chiến
cuộc gia tăng đã leo lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang
Pao...
...Suy ngẫm... Đọc
lịch sử nổi trôi của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm, đã từng một thời chen vai
thích cánh với các sắc dân khác ở Trung Hoa.
Nhưng đã không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành trướng của Hoa tộc
mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước khác ở Đông Nam Á. Luật
đào thải tự nhiên luôn luôn là nguyên lý. Mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá
bé, nước lớn luôn tìm cách thôn tính nước bé. Một khi sức tự cường của một dân
tộc không còn thì sự tồn vong chắc là chóng mai một.
Tìm hiểu lịch sử để chúng ta
phải thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đã không chịu
khuất phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay
tinh vi hơn ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu
xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua bao
đời đã kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để cho con
cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng? (H.3)
Nguồn:
-https://nghiencuulichsu.com/2014/07/31/nguoi-mieu-lich-su-cua-mot-dan-toc-luu-vong/?fbclid=IwAR16EMyil_Dt8rqDJjQWz7DOtq8sCg5Amxp_jTkeg0YbLU3TfpPkexxoyTc
-http://www.e-cadao.com/Coinguon/Nguoimieu.htm?fbclid=IwAR2HZCI6THWwbh_88uPzQEW947y5hfuOcJUJ04he4hbt6A3Tow2d1BCCdFY
-https://nghiencuulichsu.com/2014/07/31/nguoi-mieu-lich-su-cua-mot-dan-toc-luu-vong/?fbclid=IwAR16EMyil_Dt8rqDJjQWz7DOtq8sCg5Amxp_jTkeg0YbLU3TfpPkexxoyTc
-http://www.e-cadao.com/Coinguon/Nguoimieu.htm?fbclid=IwAR2HZCI6THWwbh_88uPzQEW947y5hfuOcJUJ04he4hbt6A3Tow2d1BCCdFY
*
Còn gì nữa!
Dân ta có câu thành ngữ ‘CỨT CÁ NGON HƠN LÁ RAU’, trong đó, ‘rau’ là món ăn truyền thống của người Việt, vì ngày xưa thịt và cá là của hiếm/của lạ, nên dù có ăn ‘cá lẫn với cứt cá’ thì người ta vẫn cảm thấy ngon hơn!..., rộng hơn, ‘sử Việt là của người Việt’, nhưng có không ít người đã đem sử Tàu/chuyện Tàu/triết Tàu truyền bá cho dân ta, có lẽ vì họ tưởng là... ‘cứt Lạ là ngon hơn cứt Việt’, có thể!
Và... H.4: Môi Khai 'piss on xxx' có nghĩa là Môi ai đó... đái rất... khai!, siệt!
H...ết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét